Thứ Ba, 26 tháng 9, 2017

What is the Difference Between the Theoretical and the Conceptual Framework?


Many students, both in the undergraduate and graduate levels, have difficulty discriminating the theoretical from the conceptual framework. This requires a good understanding of both frameworks in order to conduct a good investigation. This article explains the two concepts in easily understandable language. Read on to find out.
Many graduating college students and even graduate students have difficulty coming up with the conceptual framework and the theoretical framework of their thesis, a required section in thesis writing that serves as the students' map on their first venture into research. The conceptual framework is almost always confused with the theoretical framework of the study.
What is the difference between the conceptual and the theoretical framework?
A conceptual framework is the researcher’s idea on how the research problem will have to be explored. This is founded on the theoretical framework, which lies on a much broader scale of resolution. The theoretical framework dwells on time tested theories that embody the findings of numerous investigations on how phenomena occur.
The theoretical framework provides a general representation of relationships between things in a given phenomenon. The conceptual framework, on the other hand, embodies the specific direction by which the research will have to be undertaken. Statistically speaking, the conceptual framework describes the relationship between specific variables identified in the study. It also outlines the input, process and output of the whole investigation. The conceptual framework is also called the research paradigm.
Examples of the Theoretical and the Conceptual Framework
The difference between theoretical framework and conceptual framework can be further clarified by the following examples on both concepts:
  • Theoretical Framework: Stimulus elicits response.
  • Conceptual Framework: New teaching method improves students’ academic performance
Notice in the illustrative example that the theoretical framework basically differs from the conceptual framework in terms of scope. The theoretical framework describes a broader relationship between things. When stimulus is applied, response is expected. The conceptual framework is much more specific in defining this relationship. The conceptual framework specifies the variables that will have to be explored in the investigation. In this example, the variable “teaching method” represents stimulus while the “students’ academic performance” represents the response. The variables make clear the kind of statistical treatment that will have to be used to analyze the relationship.
How can students come up with their theoretical and conceptual framework?
In order to come up with their own set of theoretical and conceptual framework that will guide the conduct of the research, students have to review literature pertaining to their chosen research topic. Students need to read a lot and find out what has been studied so far in their respective fields and come up with their own synthesis of the literature. They should look for gaps in knowledge and identify what questions need to be answered or what problems need to be given solutions. Thus, they will be able to formulate their own conceptual framework to serve as guide in their research venture.


For more information on examples of variables, visit simplyeducate.me, a free website devoted to research and statistics topics.
©Patrick Regoniel 29 August 2010 The Theoretical Framework | The Conceptual Framework
Source: https://college-college-life.knoji.com/what-is-the-difference-between-the-theoretical-framework-and-the-conceptual-framework/ 









NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG THIẾT KẾ MỘT DỰ ÁN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Ngô Quý Nhâm
Trong quá trình triển khai một đề tài nghiên cứu khoa học, việc thiết kế một một kế hoạch tổng thể cho dự án nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quá trình nghiên cứu sẽ tìm ra câu trả lời có giá trị cho câu hỏi nghiên cứu đặt ra. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trình bày những vấn đề cơ bản nhất trong quá trình thiết kế một dự án nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh. Bài viết bắt đầu bằng việc làm rõ các yếu tố chính của một dự án nghiên cứu khoa học. Trong các phần tiếp theo, bài viết sẽ lần lượt thảo luận các nội dung của một dự án nghiên cứu gồm mục đích và câu hỏi nghiên cứu, xác định phương pháp tiếp cận và chiến lược nghiên cứu, lựa chọn các phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu.
Nghiên cứu khoa học và thiết kế dự án nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là quá trình lĩnh hội tri thức một cách có hệ thống bằng việc sử dụng hai công cụ vô cùng quan trọng: dữ liệu thực nghiệm và lý thuyết. Trong khoa học, sức mạnh của dữ liệu thực nghiệm được thừa nhận và các ý tưởng phải được kiểm nghiệm bằng dữ liệu. Để giải thích, diễn giải dữ liệu, người ta phải sử dụng đến lý thuyết. Mục đích của lý thuyết là để diễn giải dữ liệu chứ không chỉ thu thập dữ liệu và cũng không chỉ để sử dụng dữ liệu để mô tả sự vật hiện tượng. Do vậy, lý thuyết diễn giải đóng vai trò trung tâm trong khoa học. Nói một cách đơn giản, “nghiên cứu khoa học chính là việc thu thập dữ liệu về thế giới, xây dựng các lý thuyết để giải thích dữ liệu và sau đó kiểm nghiệm các lý thuyết này dựa trên các dữ liệu thu thập tiếp theo” (Punch, 2005, p.8).
Nghiên cứu khoa học liên quan đến quá trình thiết lập các câu hỏi nghiên cứu, vấn đề hay giả thiết nghiên cứu, thu thập dữ liệu hoặc bằng chứng liên quan tới những câu hỏi nghiên cứu, vấn đề hay giả thiết đó và phân tích hoặc giải thích dữ liệu (Neuman, 1994). Khi bắt tay vào nghiên cứu, nghiên cứu viên sẽ phải lập một kế hoạch tổng thể cho dự án nghiên cứu đó.
Như vậy, bản thiết kế dự án nghiên cứu (research design) được hiểu là một kế hoạch tổng thể cho một dự án nghiên cứu trong đó đề cập đến các vấn đề trong lập kế hoạch và triển khai một dự án nghiên cứu.  Theo Robson (2002), bản thiết kế một dự án nghiên cứu gồm có năm nội dung chủ yếu:
·        Xác định mục đích nghiên cứu: Việc đầu tiên nghiên cứu viên phải xác định rõ là nghiên cứu này sẽ đạt được cái gì? Tại sao vấn đề phải được nghiên cứu? Người nghiên cứu muốn tìm cách mô tả cải gì, hoặc giải thích hoặc tìm hiểu điều gì? Nghiên cứu này được thực hiện để tìm ra các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề gì?
·        Xác định lý thyết nghiên cứu: Lý thuyết nào sẽ được sử dụng làm định hướng cho quá trình nghiên cứu? Chúng ta sẽ hiểu hoặc diễn giải kết quả nghiên cứu như thế nào? Khung (lý thuyết) khái quát nào sẽ liên kết các hiện tượng mà ta nghiên cứu?
·        Xác định câu hỏi nghiên cứu: Nghiên cứu tìm kiếm lời giải cho câu hỏi nghiên cứu nào? Chúng ta cần biết gì để thực hiện các mục đích nghiên cứu? Mức độ khả thi của câu hỏi nghiên cứu với nguồn lực và thời gian đã xác định?
·        Xác định phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu: Kỹ thuật cụ thể nào (phỏng vấn? quan sát? Khảo sát?) sẽ được sử dụng để thu thập dữ liệu? Dữ liệu sẽ được phân tích như thế nào? Làm thế nào để chứng minh rằng dữ liệu thu được là đáng tin cậy?
·        Chiến lược lấy mẫu nghiên cứu: Nghiên cứu viên phải trả lời câu hỏi họ sẽ thu thập dữ liệu từ ai? ở đâu? Khi nào? Làm thể nào để có thể  cân bằng giữa việc chọn lọc dữ liệu và việc thu thập tất cả các dữ liệu yêu cầu?
Tương tự, Punch (2005) chỉ ra rằng một bản thiết kế dự án nghiên cứu bao gồm bốn vấn đề: chiến lược nghiên cứu; khung nghiên cứu; đối tượng nghiên cứu (ai hoặc cái gì) và công cụ được sử dụng để thu thập và phân tích các dữ liệu thực nghiệm.
Cho dù cách hiểu về bản thiết kế một dự án nghiên cứu như thế nào thì nguyên tắc chung là mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp thu thập xử lý dữ liệu phải nhất quán với nhau. Nếu như câu hỏi nghiên cứu không gắn với mục đích nghiên cứu thì nghiên cứu viên phải thay đổi một trong hai – thông thường là câu hỏi nghiên cứu sẽ phải thay đổi. Nếu câu hỏi nghiên cứu không gắn với lý thuyết, có khả năng nghiên cứu viên sẽ không tìm ra được câu trả lời có giá trị. Khi đó, lý thuyết cần phải được xây dựng hoặc câu hỏi nghiên cứu cần phải thay đổi. Nếu phương pháp thu thập xử lý dữ liệu và/hoặc chiến lược không đưa ra được câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thì cần phải có sự thay đổi. Nghiên cứu viên phải thu thập them dữ liệu, mở rộng mẫu điều tra hoặc cắt giảm hoặc thay đổi câu hỏi nghiên cứu (Robson, 2002).

Trong phần tiếp theo, bài viết sẽ tập trung vào làm rõ việc lựa câu hỏi nghiên cứu, phương pháp tiếp cận nghiên cứu và chiến lược nghiên cứu, phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu.
Xác định mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu
Tất cả các nghiên nghiên cứu đều được định hướng bởi các câu hỏi nghiên cứu, đến lượt mình các câu hỏi nghiên cứu được xác định từ mục đích nghiên cứu của đề tài. Mục đích nghiên cứu chính là câu hỏi khái quát, còn câu hỏi nghiên cứu(research question)  là các câu hỏi cụ thể trong nghiên cứu. Như đã đề cập ở trên, mục đích nghiên cứu của một dự án nghiên cứu trả lời câu hỏi công trình nghiên cứu được triển khai sẽ đạt được cái gì? Tại sao vấn đề phải được nghiên cứu?  Mục đích nghiên cứu đưa ra một định hướng chung cho dự án nghiên cứu, đặc biệt là việc xác định câu hỏi nghiên cứu một cách rõ ràng hơn.
Câu hỏi nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức dự án nghiên cứu, đưa ra định hướng nghiên cứu và sự gắn kết của toàn bộ nghiên cứu, xác lập giới hạn/phạm vi của dự án nghiên cứu. Đồng thời, câu hỏi nghiên cứu sẽ giúp giữ sự tập trung của nghiên cứu viên vào dự án nghiên cứu. Đặc biệt, câu hỏi nghiên cứu xác định khuôn khổ để viết và hoàn tất dự án nghiên cứu cũng như chỉ ra các dữ liệu cần phải thu thập. Một cách để xác định câu hỏi nghiên cứu là xác định các lĩnh vực và chủ đề nghiên cứu (mục đích nghiên cứu), sau đó phát triển các câu hỏi trong phạm vi và chủ đề đó. Cách ngược lại là bắt đầu bằng một số câu hỏi cụ thể, sau đó quay lại phát triển mục đích nghiên cứu.
Một cách thể hiện vấn đề nghiên cứu là sử dụng các giả thiết nghiên cứu. Giả thiết nghiên cứu được định nghĩa một cách đơn giản là câu trả lời trước cho câu hỏi nghiên cứu. Việc nói rằng chúng ta có một giả thiết nghiên cứu có nghĩa là chúng ta có thể dự báo được những gì chúng ta có thể tìm khi trả lời một câu hỏi. Như vậy một câu hỏi nghiên cứu cho biết chúng ta phải tìm ra vấn đề gì, còn một giả thiết nghiên cứu dự đoán lời giải cho câu hỏi đó. Quá trình triển khai nghiên cứu gắn với các giả thiết chính là việc thu thập và xử lý dữ liệu để chứng minh chấp nhận hay bác bỏ giả thiết.
Xác định phương pháp tiếp cận: nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính
Trong nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp tiếp cận có thể chia thành hai hướng tiếp cận tổng quát: nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính (Saunders, 2003). Tùy thuộc vào mục đích và câu hỏi nghiên cứu, nghiên cứu viên phải xác định phương pháp tiếp cận và chiến lược nghiên cứu phù hợp.
Phương pháp tiếp cận định lượng (Quantitative Approach hay Fixed Design) là cách tiếp cận liên quan đến việc nghiên cứu thực nghiệm mang tính hệ thống các thuộc tính định lượng, hiện tượng và quan hệ giữa chúng. Cách tiếp cận này nhấn mạnh đến phương pháp nghiên cứu có cấu trúc chặt chẽ nhằm thúc đẩy quá trình lặp lại nghiên cứu (trong các tình huống, bối cảnh khác nhau) (Gill và Johnson, 1997) và những quan sát có thể định lượng được sử dụng cho phân tích thống kê. Kết quả nghiên cứu có thể được khái quát hóa thành dạng quy luật, tương tự như kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học vật lý và tự nhiên.
Bản chất của phương pháp nghiên cứu định lượng gợi mở rằng việc thu thập dữ liệu sẽ cho các dữ liệu dạng số và được tiêu chuẩn hóa và việc nghiên cứu được thực hiện thông qua các biểu đồ và toán thống kê (Saunder, 2003). Vì vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu kinh doanh và quản trị nghiên cứu định lượng thường không cho người nghiên cứu cái nhìn sâu sắc về các vấn đề phức tạp (Remenyi, 2005).
Phương pháp tiếp cận định tính (Qualitative Approach/Flexible) là cách tiếp cận trong đó nghiên cứu viên tìm hiểu hành vi, động cơ và ý đồ đối tượng nghiên cứu (con người) và những lý do điều khiển những hành vi đó (Sounder et al., 2003). Sự khác biệt cơ bản giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng là phương pháp nghiên cứu định tính tập trung vào quá trình thay vì kết quả, cái tổng thể thay vì các biến độc lập và tập trung vào ý nghĩa hơn là thống kê hành vi (Burns, 2000).
Nghiên cứu định tính gắn với việc thu thập dữ liệu định tính nhưng cũng có thể liên quan đến việc thu thập dữ liệu định lượng. Dữ liệu định tính  dựa trên các ý nghĩa và được diễn đạt bằng lời hay văn bản. Chính vì vậy, dữ liệu thu thập đường thường là phi tiêu chuẩn và phải được phân nhóm và chủ yếu được phân tích theo phương pháp khái quát hóa (Saunders, 2003). Bản chất của nghiên cứu định tính cho thấy nó có thể sử dụng để nghiên cứu, giải thích các vấn đề phức tạp của hoạt động quản lý và kinh doanh. Tuy nhiên, hạn chế cơ bản của phương pháp này là kết quả nghiên cứu chưa sẵn sàng để suy rộng được (khái quát hóa). Hơn nữa, giới hạn thời gian để nghiên cứu thường là một vấn đề. Tuy nhiên, sự giới hạn này lại cần thiết để xác định giới hạn cho việc thu thập và phân tích dữ liệu (Remenyi et al, 2005).

Sử dụng nghiên cứu đinh tính trong trường hợp
Sử dụng nghiên cứu định lượng trong trường hợp
Chủ đề nghiên cứu mới và chưa được xác định rõ
Chủ đề nghiên cứu đã được xác định rõ và đã quen thuộc
Nghiên cứu thăm dò, khi chưa nắm được những khái niệm và các biến số
Khi những vấn đề cần đo lường khá nhỏ hay đã từng được giải quyết
Khi cần thăm dò sâu, khi muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa những khía cạnh đặc biệt của hành vi với ngữ cảnh rộng hơn
Khi không cần thiết phải liên hệ những phát hiện với các bối cảnh xã hội hay văn hóa rộng hơn hay bối cảnh này đã được hiểu biết đầy đủ
Khi cần tìm hiểu về ý nghĩa, nguyên nhân hơn là tần số
Khi cần sự mô tả chi tiết bằng các con số cho một mẫu đại diện
Khi cần có sự linh hoạt trong hướng nghiên cứu để phát hiện những vấn đề mới và khám phá sâu một chủ đề nào đó
Khi khả năng tiến hành lại sự đo lường là quan trọng
Nghiên cứu sâu và chi tiết những vấn đề được chọn lựa kỹ càng, những trường hợp hoặc các sự kiện
Khi cần khái quát hóa và so sánh kết quả trong quần thể nghiên cứu

Xác định chiến lược nghiên cứu 
Với mỗi phương pháp tiếp cận, nghiên cứu viên phải xác định một chiến lược nghiên cứu phù hợp. Theo Sounders (2003) chiến lược nghiên cứu là một kế hoạch tổng thể mà nghiên cứu viên sẽ bám sát trong quá trình nghiên cứu để trả lời câu hỏi nghiên cứu. Sounders (2003) đã thống kê sáu chiến lược nghiên cứu có thể áp dụng trong lĩnh vực nghiên cứu quản lý và kinh doanh: nghiên cứu tình huống (case study), nghiên cứu lý thuyết (grounded theory), nghiên cứu nhân học (ethnography), và nghiên cứu hành động (action research) nghiên cứu thực nghiệm (experiment) và nghiên cứu mô tả (survey). Trong số đó, nghiên cứu thực nghiệm và mô tả (survey) là các chiến lược dùng tromg phương pháp tiếp cận định lượng và bốn phương pháp còn lại gồm nghiên cứu tình huống, nghiên cứu lý thuyết,  nghiên cứu nhân học và nghiên cứu hành động thường được sử dụng trong phương pháp tiếp cận định tính (Sounders, 2003).
Chiến lược nghiên cứu thực nghiệm là một trong hai chiến lược sử dụng trong phương pháp tiến cận định lượng. Đặc điểm trung tâm của chiến lược này là nghiên cứu viên chủ động đưa ra một vài dạng thay đổi trong tình huống, bối cảnh hoặc kinh nghiệm của những người tham gia nhằm tạo ra những thay đổi mang tính hậu quả trong hành vi của họ (Robson, 2002). Trong nghiên cứu thực nghiệm, người ta tập trung vào đo lường ảnh hưởng của của một biến (biến độc lập) đối với một biến khác (biến phụ thuộc). Các chi tiết của dự án nghiên cứu được cụ thể hóa trước khi việc thu thập dữ liệu chính thức bắt đầu (thông thường có một giai đoạn “thử nghiệm” khi kiểm tra tính khả thi của dự án nghiên cứu và đư ra những thay đổi nếu có). Các đặt điểm của chiến lược nghiên cứu thực nghiệm này gồm: việc nghiên cứu bắt đầu bằng việc lựa chọn mẫu từ tổng thể đã biết và phân bổ mẫu theo các điều kiện thực nghiệm khac nhau; sau đó, chủ động thay đổi một hoặc một số biến và đo lường sự thay đổi của một lượng nhỏ các biến trong khi kiểm soát các biến khác; thông thường nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến việc kiểm định các giả thiết.
Chiến lược nghiên cứu phi thực nghiệm ( còn gọi là nghiên cứu mô tả -survey strategy) về cơ bản cũng giống như chiến lược nghiên cứu thực nghiệm nhưng người nghiên cứu không thay đổi hay can thiệp vào tình huống, bối cảnh hoặc trải nghiệm của người tham gia. Nói cách khác, hiện tượng được nghiên cứu không thể bị kiểm soát hoặc thay đổi một cách chủ ý bởi người nghiên cứu do bản thân nó không thể thay đổi được (như các đặc điểm cá nhân gồm giới tính, tuổi) hoặc không nên thay đổi vì lý dó đạo đức (như hút thuốc lá, uống rượu) hoặc không khả thi trong điều chỉnh. Nghiên cứu thực nghiệm thường được sử dụng cho mục đích mô tả và vì bản chất cố định và được cụ thể hóa từ trước nên nó không được sử dụng tốt cho nghiên cứu khám phá. Phương pháp này có thể được sử dụng  khi nghiên cứu viên muốn tìm cách giải thích hoặc hiểu biết hiện tượng.
Chiến lược nghiên cứu được sử dụng rất phổ biến trong nghiên cứu quản trị là nghiên cứu tình huống. Nghiên cứu tình huống được định nghĩa là một chiến lược nghiên cứu mà nghiên cứu viên sử dụng để điều tra  thực nghiệm một hiện tượng cụ thể trong bối cảnh thực tế với nhiều nguồn dữ liệu (Robson, 2002). Một tình huống trong nghiên cứu có thể là một người, một nhóm, một tổ chức hoặc một trường học.
Chiến lược nghiên cứu có ba đặc điểm rõ rệt. Thứ nhất, chiến lược này liên quan đến việc lựa chọn một tình huống/hiện tượng duy nhất (ví dụ một doanh nghiệp) hoặc một lượng nhỏ các hiện tượng nghiên cứu liên quan (nhóm doanh nghiệp) để nghiên cứu. Thứ hai, chiến lược này tập trung vào sự vật hiện tượng trong một bối cảnh cụ thể. Cuối cùng, chiến lược nghiên cứu này thường gắn với việc sử dụng nhiều phương pháp thu thập dữ liệu và thường mang tính tự nhiên như quan sát, phòng vấn, phân tích tài liệu (Robson, 2002; Saunders et al, 2003). Mặc dù chiến lược nghiên cứu này có thể sử dụng phương pháp tiếp cận định  tính hay định lượng  hoặc cả hai, hầu hết các tình huống nghiên cứu đều sử dụng trong phương pháp tiếp cận định tính.
Vấn đề tranh cãi nhất liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình huống là khả năng khái quát hóa – tức là khả năng suy rộng. “Nghiên cứu này chỉ dựa trên một tình huống, vậy làm thế nào có thể suy rộng ra các trường hợp khác?”. Thực tế có hai loại tình huống mà việc suy rộng rẽ không phải là mục tiêu hướng tới. Thứ nhất, tình huống nghiên cứu có thể rất quan trọng, hấp dẫn hoặc bị hiểu sai và vì vậy cần được nghiên cứu một cách đúng nhất. Hoặc cũng có thể tình huống nghiên cứu rất độc đáo ở một phương diện quan trọng nào đó và vì vậy rất đáng đề nghiên cứu. Loại tình huống thứ hai là việc nghiên cứu “tình huống phủ định”. Đây là loại tình huống mà thông thường có khác biệt đáng kể, thậm chí là trái ngược hẳn, với các dạng tình huống phổ biến khác, trên cơ sở đó giải tìm hiểu tại sao có sự khác biệt đó. Ngoài hai tình huống trên, có nhiều nghiên cứu tình huống trong đó nghiên cứu viên có thể muốn tìm điều gì đó có thể ứng dụng rộng hơn. Có hai cách trong đó nghiên cứu tình huống có thể đưa ra các kết quả mà có thể suy rộng. Cả hai cách phụ thuộc vào mục đích của nghiên cứu tình huống và đặc biệt là cách thức dữ liệu được xử lý và phân tích. Cách thứ nhất là bằng khái quát hóa và cách thứ hai là bằng phát triển các mệnh đề (giả thuyết). Trong phương pháp khái quát hóa, dựa vào nghiên cứu một cách chặt chẽ tình huống và sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu trong đó tập trung vào việc khái quán hóa thay vì mô tả hiện tượng, nghiên cứu viên sẽ phát triển một hoặc một vài khái niệm để giải thích các khía cạnh của tình huống nghiên cứu. Để phát triển các mệnh đề, dựa trên các tình huống nghiên cứu, nghiên cứu viên sẽ đưa ra một hoặc một vài mệnh đề - hay còn gọi là giải thuyết – có tác dụng liên kết các khái niệm hoặc nhân tố trong tình huống lại với nhau. Trong cả hai trường hợp, không có một tình huống nào có thể chứng minh khả năng suy rộng các kết quả nghiên cứu. Nhưng chắc chắn nó có thể mở ra khả năng suy rộng, đưa ra những khái niệm hoặc giả thuyết để kiểm nghiệm trong các nghiên cứu tiếp theo (Punch, 2005).
Nghiên cứu nhân học (Ethnography) cũng là một trong những chiến lược nghiên cứu phổ biến nhất trong khoa học xã hội. Khái niệm “nhân học” (enthography) có nguồn gốc từ lĩnh vực nhân chủng học/văn hóa. Robson (2002) định nghĩa “nghiên cứu nhân học” là chiến lược nghiên cứu được sử dụng để thu thập, diễn dịch và giải thích cách thức một nhóm, một tổ chức hoặc một cộng đồng sống hoặc làm việc, trải nghiệm và tìm hiểu cuộc sống và thế giới của họ. Còn Hammersly và Atkinson (1995) nhìn nhận nghiên cứu nhân học là một chiến lược nghiên cứu trong đó người nghiên cứu phải tham gia công khai hoặc ngấm ngầm vào cuộc sống hàng ngày trong một thời gian dài để theo dõi những gì đang xảy ra, nghe những gì được nói, hỏi và thu thập các dữ liệu khác liên quan. Trong nghiên cứu quản lý và kinh doanh, chiến lược này thường được sử dụng để nghiên cứu văn hóa doanh nghiệp, quá trình hình thành và phát triển nhóm… Để khám phá những vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc như vậy, nghiên cứu viên phải có được cách nhìn của người trong cuộc và vì vậy họ phải quan sát và nghiên cứu nhóm này trong bối cảnh tự nhiên và nhập cuộc vào những gì đang diễn ra.  Không giống như những phương pháp khác, nghiên cứu nhân học thường được nghiên cứu trong tình trạng tự nhiên nhất có thể, không bị cạn thiệp bởi người nghiên cứu. Thông thường, quá trình thu thập dữ liệu thường phải kéo dài vài năm và sẽ phải trải qua một số giai đoạn (Robson, 2002).
Chiến lược nghiên cứu thứ ba là nghiên cứu lý thuyết (Grounded Theory Study). Mặc dù có tên gọi là nghiên cứu lý thuyết nhưng lại không phải là một lý thuyết. Nghiên cứu lý thuyết là một cách tiếp cận, một chiến lược nghiên cứu với mục đích là để phát triển một lý thuyết mới   bằng phương pháp quy nạp trên cơ sở các dữ liệu được thu thập bằng việc quan sát hoặc phỏng vấn (Punch, 2005; Saunders et al., 2003). Theo Robson (2002), chiến lược nghiên cứu lý thuyết có thể cung cấp một quy trình rõ ràng để xây dựng một lý thuyết trong dự án nghiên cứu và để phân tích dữ liệu định lượng. Phương pháp này đặc biệt hữu ích trong các lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng trong đó việc tiếp cận lý thuyết được lựa chọn không rõ ràng hoặc không có.
Một chiến lược nghiên cứu cuối cùng là nghiên cứu hành động (action research). Chiến lược nghiên cứu này thường gắn với việc quản lý một quá trình thay đổi và đòi hỏi sự hợp tác giữa nghiên cứu viên và những người thực hành. Mục đích của nghiên cứu hành động không chỉ là mô tả, hiểu và giải thích hiện tượng/đối tượng nghiên cứu mà còn thay đổi hiện tượng/đối tượng. Nghiên cứu viên phải trực tiếp tham gia vào quá trình thay đổi và cuối cùng ứng dụng tri thức. Do đó, nghiên cứu viên phải dành nhiều thời gian cho việc quan sát, kiểm soát và đánh giá còn người thực hành phải thực hiện toàn bộ quá trình (Saunders et al, 2003). Nghiên cứu hành động có thể được sử dụng trong phương pháp tiếp cận định lượng, tiếp cận định tính hoặc hỗn hợp. Mặc thường gắn với phương pháp tiếp cận và dữ liệu định tính, nghiên cứu hành động không chỉ dựa trên dữ liệu định tính. Ngược lại, dữ liệu định lượng sẽ được sử dụng bất kỳ lúc nào nếu thấy phù hợp và sẵn có (Punch, 2005).
Xác định phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu
Việc lựa chọn phương pháp thu thập dữ liệu phải phù hợp với câu hỏi nghiên cứu, phương pháp tiếp cận và chiến lược nghiên cứu. Nghiên cứu định lượng thường thu thập dữ liệu bằng bảng hỏi khảo sát (survey/Questionnaire) và phương pháp quan sát, còn nghiên cứu định tính thường sử dụng phương pháp quan sát, phương pháp  phỏng vấn và phương pháp thu thập  dữ liệu thứ cấp.
Phương pháp khảo sát (survey) là phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu phổ biến nhất dựa trên các bảng hỏi (questionnaire). Việc khảo sát có thể thực hiện bằng cách phỏng vấn (phỏng vấn khảo sát) hoặc gửi thư (bưu điện, email, internet). Đặc điểm chính của phương pháp khảo sát là được sử dụng trong phương pháp tiếp cận định lượng, thu thập một lượng nhỏ dữ liệu dưới định dạng được tiêu chuẩn hóa từ một mẫu tương đối lớn và quá trình chọn mẫu mang tính đại diện từ một tổng thể đã biết. Vì vậy, dữ liệu thu thập được từ khảo sát là dữ liệu dạng số và  quá trình khảo sát (đo lường) là một quá trình các dữ liệu nghiên cứu được chuyển sang dạng số. Với những đặc điểm như vậy, phương pháp khảo sát có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong mắt các nhà nghiên cứu. Một số nhà nghiên cứu còn coi phương pháp này là chiến lược trung tâm. Trong các tình huống phi thực nghiệm mà việc thực nghiệm không khả thi hoặc không đảm bảo về mặt đạo đức, việc khảo sát lại đảm bảo một vùng tin cậy  (Robson, 2002, p230).  Gắn với phương pháp khảo sát là một hệ phức hợp các quan tân về mặt kỹ thuật về xác định mẫu, thiết kế câu hỏi, mã hóa câu trả lời. Ưu điểm nổi bật của phương pháp khảo sát là nó cho cách tiếp cập tương đổi đơn giản trong nghiên cứu hành vi, thái độ, giá trị, niềm tin và động cơ của đối tượng nghiên cứu. Các cuộc khảo sát thường có thể điều chỉnh được để có thể thu thập các thông tin có thể khái quát hóa được từ hầu hết các tổng thể nghiên cứu. Một ưu điểm nữa của phương pháp khảo sát là có thể cho phép thu thập được một lượng lớn các dữ liệu được nghiên cứu.  Tuy nhiên, thu thập dữ liệu bằng khảo sát không phải ít những hạn chế. Dữ liệu thu thập được từ phương pháp khảo sát lại dễ bị ảnh hưởng bởi đặc điểm của người trả lời (như trí nhớ, kiến thức, kinh nghiệm, động cơ và tính cách. Bên cạnh đó, người trả lời cũng không nhất thiết phải báo cáo niềm tin thái độ của họ một cách chính xác. Nếu khảo sát qua bưu điện hoặc email, tỷ lệ trả lời câu hỏi tương đối thấp. Khi không biết rõ đặc điểm của người trả lời, nghiên cứu viên không thể kết luận được là mẫu có mang tính đại diện không. Cuối cùng, có thể có sự không rõ ràng hoặc hiểu nhầm câu hỏi khảo sát, dữ liệu thu thập được có thể không còn đúng nữa (Robson, 2002).
 Phương pháp quan sát.
Quan sát  là phương pháp thu thập dữ liệu truyền thống bằng việc quan sát, ghi chép, mô tả,  phân tích và diễn giải một cách hệ thống các hiện tượng xã hội được nghiên cứu (Saunders et al, 2003). Có hai phương pháp quan sát khác nhau: quan sát theo phương pháp định lượng và quan sát  định tính. Quan sát theo phương pháp định lượng hay quan sát theo cấu trúc chú trọng đến tần suất của hành động đó (Robson, 2002, Saunders et al, 2003) và việc quan sát được thực hiện theo một cấu trúc chặt chẽ, lịch trình quan sát thường được định trước và thường rất chi tiết. Vì vậy, phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu định lượng. Ngược lại, quan sát theo phương pháp tiếp cận định tính thường không theo cấu trúc định trước và chủ yếu sử dụng trọng nghiên cứu định tính. Nghiên cứu viên không sử dụng các cách phân nhóm thông tin trước mà thường thực hiện quan sát theo cách tự nhiên và mở. Cho dù kỹ thuật ghi lại kết quả quan sát là gì thì hành vi được quan sát dưới dạng chuỗi hành động và sự kiện khi chúng xảy ra (Puch, 2005).
Với phương pháp quan sát theo phương pháp định tính, kỹ thuật Quan sát trong vai trò người tham gia thường được sử dụng. Trong kỹ thuật này, vai trò của nghiên cứu viên thay đổi từ việc quan sát tình huống từ bên cạnh sang vừa là người tham gia  và vừa là người quan sát tình huống. Đây là một phong cách nghiên cứu định tính và chú trọng đến việc khám phá những ý nghĩa mà con người thể hiện qua hành động của họ trong quá trình quan sát (Puch, 2005).  Do nghiên cứu viên tham gia trực tiếp vào hoạt động của đối tượng nghiên cứu, “sống” trong bối cảnh nghiên cứu nên các dữ liệu nghiên cứu thu thập được tin cậy hơn bất cứ phương pháp thu thập dữ liệu nào khác. Tuy nhiên, yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất của phương pháp này là nghiên cứu viên phải trở thành thành viên của nhóm hoặc tổ chức quan sát, cố gắng tìm hiểu văn hóa, tập quán của tổ chức.  Nó không chỉ liên quan đến sự hiện diện và chia sẻ kinh nghiệm sống mà còn can dự trực tiếp vào thế giới xã hội của họ (Robson, 2002). Vì vậy, kỹ thuật này thường đòi hỏi một thời gian nghiên cứu dài và nghiên cứu viên phải tiếp cận được với nhóm hoặc tổ chức sẵn sàng cho họ tham gia.
Phỏng vấn.
Phỏng vấn là một trong những phương pháp thu thập dữ liệu chủ yếu trong nghiên cứu định tính. Phỏng vấn là một phương pháp rất hiệu quả trong đánh giá nhận thức, các ý nghĩa, xác định các tình huống, cấu trúc của hiện tượng nghiên cứu của một người hoặc nhóm người. Đây cũng là một trong những phương pháp mạnh nhất nhất để có được sự thấu hiểu người khác (Punch, 2005).
Phương pháp thu thập dữ liệu bằng phỏng vấn có nhiều  hình thức và mục đích sử dụng cũng khác nhau. Hình thức phổ biến nhất là đối thoại trực tiếp (mặt đối mặt), cá nhân những cũng có thể là phỏng vấn trực tiếp theo nhóm, qua thư từ hoặc bảng hỏi tự điền thông tin và khảo sát qua điện thoại (Fotana và Frey, 1994).
Phỏng vấn có thể là theo cấu trúc, phỏng vấn nhóm, hoặc phỏng vấn phi cấu trúc. Trong phỏng vấn theo cấu trúc, người được phỏng vấn sẽ được hỏi một chuỗi các câu hỏi được lập sẵn với các nhóm thông tin phản hồi được định trước. Trong quá trình thực hiện phỏng vấn, thường có rất ít cơ hội điều chỉnh mặc dù có sử dụng câu hỏi mở. Tất cả những người tham gia trả lời câu hỏi phỏng vấn được hỏi các câu hỏi tương tự nhau, theo cùng một trình tự và được hỏi một cách chuẩn mực. Trong phương pháp phỏng vấn này, sự linh hoạt được giảm thiểu và thông tin tiêu chuẩn được tối đa hóa. Ngược lại, phương pháp phỏng vấn phi cấu trúc phổ biến là phỏng vấn sâu, sử dụng câu hỏi mở và không được tiêu chuẩn hóa. Phương pháp này thường được sử dụng để nghiên cứu các hành vi phức tạp của con người mà không áp đặt một biện pháp phân nhóm nào trước nếu sự phân loại này làm giới hạn lĩnh vực cần hỏi. Phỏng vấn nhóm thường đề cập đến việc nghiên cứu viên phỏng vấn đồng thời một vài người thay vì một người. Phương pháp phỏng vấn nhóm ban đầu được sử dụng trong nghiên cứu marketing và nghiên cứu chính trị nhưng nay đã trở thành phương pháp phổ biến trong nghiên cứu quản trị và khoa học xã hội. Trong phương pháp phỏng vấn này, nghiên cứu viên có sự thay đổi từ vai trò là người phỏng vấn sang vai trò là người thúc đẩy, cố vấn nhóm. Nghiên cứu viên thực hiện việc khuyến khích, điều tiết, kiểm soát và ghi lại quá trình tương tác, trao đổi của nhóm. Hoạt động tương tác, trao đổi của nhóm sẽ được định hướng bởi các câu hỏi và chủ đề mà nghiên cứu viên đưa ra. Phỏng vấn nhóm nếu được điều phối tốt sẽ thúc đẩy những người tham gia phỏng ván thể hiện quan điểm, nhận thức, động cơ và các lý do – những dữ liệu quan trọng cần thu thập. Phương pháp này không mất nhiều chi phí, giàu dữ liệu, linh hoạt, lý thú và tỉ mỉ. Tuy nhiên, vấn đề có thể nảy sinh do văn hóa và sự năng động của nhóm và trong việc cân bằng quá trình tương tác giữa các thành viên trong nhóm (Fontana và Frey, 1994).
Dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu thứ cấp bao gồm các văn bản viết như thông báo, biên bản cuộc họp, thư từ, nhật ký, tiểu sử, thông báo của chính phủ, các bản ghi hành chính và báo cáo gửi các cổ đông hoặc đối tượng hữu quan cũng như các tài liệu không phải văn bản như băng ghi âm, phim ảnh, phim và các chương trình truyền hình (Jupp, 1996, Robson, 2002). Đây là nguồn dữ liệu rất phong phú cho nghiên cứu. Một đặc điểm phổ biến hiện nay trong xã hội là có quá nhiều “bằng chứng văn bản”, thường được biên soạn và lưu trữ thường xuyên, tuy nhiên những tài liệu này này thường bị bỏ qua có lẽ vì sử phổ biến của nhiều phương pháp khác (thực nghiệm, khảo sát, phỏng vấn, quan sát). Các nguồn dữ liệu thứ cấp có thể được sử dụng theo các cách khác nhau trong nghiên cứu khoa học xã hội. Một số nghiên cứu có thể dựa hoàn toàn vào các dữ liệu thứ cấp trong khi một số nghiên cứu khác như nghiên cứu tình huống, nghiên cứu lý thuyết có thể sử dụng kết hợp với phương pháp phỏng vấn và quan sát. Khi sử dụng kết hợp với các dữ liệu khác, tài liệu thu thập được có thể rất quan trọng trong phép kiểm tra chéo (triangulation), trong đó một sự kết hợp chéo các phương pháp khác nhau và các loại dữ liệu khác nhau được sử dụng trong một dự án duy nhất. Cuối cùng, các sản phẩm dữ liệu trở nên đặc biệt quan trọng đối với nhà nghiên cứu nhân học vì nó cung cấp một nguồn dữ liệu phong phú cho việc phân tích.
 Tóm lại, việc thiết kế một dự án nghiên cứu phải lấy mục đích và mục tiêu nghiên cứu làm xuất phát điểm và trên cơ sở đó nghiên cứu viên phải lựa chọn phương pháp tiếp cận (định lượng hay định tính) và lựa chọn chiến lược nghiên cứu cho phù hợp với vấn đề nghiên cứu. Tùy theo mục đích nghiên cứu là phát triển lý thuyết hay kiểm định một lý thuyết/giả thiết, nghiên cứu viên phải lựa chọn kỹ thuật thu thập dữ liệu phù hợp. Sự  nhất quán giữa mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp thu thập xử lý dữ liệu là nguyên tắc vàng đảm bảo cho sự thành công của dự án.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.      Fontana, A và Frey, J.H (1994) “Interview: the art of science”, trong N.K Denzin và Y.S Hammersly, M và Atkinson, P (1995) Ethnography: Principles in Practice. 2nd Edn. London: Routledge.
2.      Lincoln (eds), Handbook of Qualitative Research. Thousand Oaks, CA: Sage, tr 361-76.
3.      Neuman, W.L. (1994) Social Research Methods: Qualitative and Quantitative Approaches(2rd edn), London, Allyn and Bacon.
4.      Punch, Keith (2005) Introduction to Social Research: Quantitative and Qualitative Approaches (2nd Ed) London: Sage Publications
5.      Robson, C. (2002) Real World Research. 2nd ed. Oxford: Blackwell
6.      Saunder, M., Lewis, P. Thornhill, A. (2003) Research Methods for Business Students. (3rd ed) London: FT Prentice Hall.
7.      Yin, R. K (1994), Case Study Research – Design and Methods. Sage Publications, Newbury Park, CA.

Source: https://sites.google.com/site/ngoquynham/tai-nguyen-tri-thuc/nhung-van-dhe-co-ban-trong-thiet-ke-mot-du-an-nghien-cuu-khoa-hoc


Thứ Năm, 14 tháng 9, 2017

Phạm vi và định nghĩa về Di sản: từ Hữu hình đến Vô hình

The Scope and Definitions of Heritage: From Tangible to Intangible 
Yahaya Ahmad
Phạm vi và định nghĩa về Di sản: từ Hữu hình (vật thể) đến Vô hình (phi vật thể)
International Journal of Heritage Studies Vol. 12, No. 3, May 2006, pp. 292–300
This article was downloaded by: [Florida State University]
On: 30 April 2013, At: 04:47
Publisher: Routledge
Informa Ltd Registered in England and Wales Registered Number: 1072954 Registered office: Mortimer House, 37-41 Mortimer Street, London W1T 3JH, UK
Người dịch: NHN
Từ khi thông qua Hiến chương Venice năm 1964, đã có nhiều hướng dẫn bảo tồn dưới hình thức các hiến chương, khuyến nghị và nghị quyết đã được các tổ chức quốc tế như UNESCO và ICOMOS đưa ra và thông qua. Bài viết này tập trung vào phạm vi và định nghĩa về di sản được ban hành bởi các hiến chương khác nhau trên toàn cầu. Thuật ngữ "di tích lịch sử" (historic monument) sử dụng trong Hiến chương Venice năm 1964 đã được ICOMOS giải thích lại vào năm 1965 với nghĩa là "di tích" (monument) và "địa điểm" (site), và được UNESCO định nghĩa là “tài sản văn hóa” bao gồm cả những tài sản di động (movable) và bất động (immovable). Các thuật nữ khác nhau giữa UNESCO và ICOMOS đã được thống nhất, hòa hợp tại Công ước Di sản Thế giới năm 1972. Ở cấp quốc gia và khu vực, phạm vi của thuật ngữ di sản đã được mở rộng bao gồm các khu vườn, cảnh quan/thắng cảnh và môi trường, và sau đó được giải thích lại và được định nghĩa khá khác nhau ở châu Âu, Úc, New Zealand , Canada và Trung Quốc. Nói chung, phạm vi của thuật ngữ di sản hiện nay đã được thống nhất trên quy mô quốc tế để bao gồm cả di sản “hữu hình (vật thể)” và “vô hình (phi vật thể)” cũng như “môi trường”, tuy nhiên, thuật ngữ tốt hơn về 'di sản' vẫn chưa được định hình hợp lý hoặc chưa được tiêu chuẩn hóa và do đó, không có sự đồng bộ giữa các quốc gia.
Từ khoá: Hiến chương; Di sản; Phạm vi; Định nghĩa
Sự phát triển các nguyên tắc bảo tồn vào nửa sau của thế kỷ 20 đã được nhiều người coi là thành tựu quan trọng nhất của các hoạt động bảo tồn quốc tế. Các nguyên tắc hoặc hướng dẫn này được ban hành dưới hình thức các hiến chương, khuyến nghị, nghị quyết, tuyên bố hoặc phát biểu được soạn thảo và chủ yếu thông qua bởi các tổ chức quốc tế như UNESCO và ICOMOS với mục đích chính là bảo vệ tài sản văn hoá, bao gồm các di tích lịch sử, của các tòa nhà, các địa điểm khảo cổ và các thành phố trên toàn cầu, chống lại các mối đe dọa khác nhau. Nguyên tắc quan trọng nhất là Hiến chương Quốc tế về Bảo tồn và Phục dựng các di tích và địa điểm, thường được gọi là Hiến chương Venice năm 1964[1], đã đặt ra một tiêu chuẩn đáng kể cho các nguyên tắc quản lý bảo tồn và phục dựng kiến trúc. Hiến chương đã giúp mở rộng khái niệm về các tòa nhà lịch sử, việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào các công trình bảo tồn, hợp tác quốc tế và, quan trọng nhất, đã cung cấp một bộ các nguyên tắc bảo vệ di sản kiến trúc và các địa điểm khảo cổ. Sau khi được quốc tế thông qua năm 1964, Hiến chương Venice đã được sử dụng làm điểm tham chiếu cho việc phát triển một số văn kiện bảo tồn khác trên thế giới.
Cho đến nay, đã có không dưới 40 văn bản như vậy tồn tại ở cấp quốc gia và quốc tế; những văn bản này đã được khởi xướng chủ yếu bởi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc (UNESCO) và Hội đồng Quốc tế về Di tích và Di chỉ (ICOMOS). Đã có ít nhất 27 văn bản mang tính chất quốc tế và 17 văn bản khác mang tính chất khu vực và quốc gia. Trong số đó có những văn bản được ban hành để tham khảo quốc tế như:

  • ·      Hiến chương quốc tế về Bảo tồn và Phục dựng Di tích và Di chỉ (Hiến chương Venice), CATHM, 1964;
  • ·       Khuyến nghị về Bảo tồn Tài sản văn hoá bị đe doạ bởi các công trình công cộng hoặc tư nhân, UNESCO, 1968;
  • ·       Nghị quyết của hội nghị chuyên đề về việc giới thiệu kiến trúc đương đại vào các nhóm tòa nhà cổ, ICOMOS, 1972;
  • ·       Công ước về bảo vệ di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới, UNESCO, 1972;
  • ·       Khuyến nghị về bảo vệ và vai trò đương đại của khu vực lịch sử, UNESCO, 1976;
  • ·       Hiến chương về bảo tồn các khu di tích lịch sử và đô thị, ICOMOS, 1987;
  • ·       Hiến chương về bảo tồn công viên lịch sử, ICOMOS, 1982;
  • ·       Hướng dẫn về giáo dục và đào tạo trong bảo tồn các di tích, phong cảnh và các di chỉ, ICOMOS, 1993;
  • ·       Tư liệu Nara về Tính xác thực, Nhật Bản và UNESCO, 1994;
  • ·       Hiến chương về Bảo vệ và Quản lý Di sản Văn hóa dưới nước, ICOMOS, 1996;
  • ·       Nguyên tắc ghi chép (lập hồ sở) các di tích, các nhóm kiến trúc và các di chỉ, ICOMOS, 1996;
  • ·       Các nguyên tắc bảo quản các kiến trúc gỗ lịch sử, ICOMOS, 1999;
  • ·       Hiến chương về xây dựng di sản ở địa phương, ICOMOS, 2000;
  • ·       Công ước về Bảo vệ di sản văn hoá dưới nước, UNESCO, 2001
Cách hiểu-sự giải thích ở cấp độ độ quốc tế
Một trong những mối quan tâm chính của các nguyên tắc này là xác định và thiết lập phạm vi của định nghĩa di sản và các định nghĩa chung. Kể từ Hiến chương Venice năm 1964, phạm vi của di sản đã mở rộng từ sự quan tâm về di sản vật thể như các di tích, kiến trúc lịch sử cho đến các di tích kiến trúc đô thị và khu vực nông thôn, các công viên lịch sử và cho đến di sản phi vật thể bao gồm môi trường, các tác nhân xã hội, và sau đó là các giá trị vô hình. UNESCO và ICOMOS đã đi đầu trong việc xác định thuật ngữ chung và phạm vi di sản từ năm 1965. Thuật ngữ "di tích lịch sử" trong Điều 1 của Hiến chương Venice năm 1964, "không chỉ là công trình kiến trúc đơn lẻ mà cả môi trường đô thị và nông thôn" vẫn chưa được xác định rõ ràng. Hiến chương đã không giải quyết được câu hỏi về Cái gì cấu thành nên một di tích lịch sử và cũng không thảo luận về các đặc tính của các môi trường đô thị và nông thôn và định nghĩa về các địa điểm/di chỉ. Do đó, năm 1965 trong Hội nghị thành lập của ICOMOS[2], phạm vi di sản đã được định nghĩa lại. Di sản sau đó được định nghĩa là di tích và các di chỉ:
Điều 3: 1
Thuật ngữ "di tích" (monument) sẽ bao gồm tất cả các tài sản thực, dù có là bao gồm các kiến trúc hay không, có tầm quan trọng về khảo cổ học, kiến trúc, lịch sử hoặc dân tộc học và có thể bao gồm nội thất trang trí được bảo vệ cùng với chúng.
Thuật ngữ “địa điểm/di chỉ” (site) được xác định như một nhóm các yếu tố do tự nhiên hoặc con người tạo ra, hoặc do sự kết hợp của hai yếu tố đó, vì lợi ích của cộng đồng để bảo tồn.
Để xác định được sự liên quan giữa hai định nghĩa này (như được mô tả bởi người đưa tin của Hội nghị thành lập tổ chức họp năm 1965) và để tránh chồng chéo về chuyên môn giữa ICOMOS và Hội đồng Bảo tàng Quốc tế (ICOM), nó đã được làm rõ trong Điều 3c rằng, các sưu tập khảo cổ học, tất cả các tài sản văn hóa di động giống như các sưu tập bảo tàng và bảo tàng ngoài trời đã được loại khỏi định những nghĩa này. Điều này nhằm tôn trọng chuyên môn của ICOM và phân biệt giữa những tổ chức nên chịu trách nhiệm về "di sản kiến trúc" với những tổ chức liên quan đến "các sưu tập bảo tàng".
Năm 1968, tại kỳ họp thứ 15 của Đại hội đồng tại Paris, UNESCO đã thông qua Khuyến nghị về Bảo tồn Di sản văn hoá bị đe doạ bởi các công trình công cộng hoặc tư nhân[3], trong đó, kỳ họp này cũng đã cố gắng đưa ra định nghĩa về phạm vi di sản. Định nghĩa di sản là 'di tích' và 'các địa điểm/di chỉ' được ICOMOS đưa ra trước năm 1965 không được chấp thuận bở toàn thể Đại hội đồng; thay vào đó, họ đã định nghĩa lại thuật ngữ là “tài sản văn hoá” như đã được giới thiệu trong Công ước La Hay năm 1954[4]. Tài sản văn hoá được tập hợp lại và được định nghĩa năm 1968 như là tài sản di động và bất động sản. Tài sản văn hoá di động (Movable) được gọi là "các sưu tập bảo tàng" và tài sản văn hóa bất động (Immovable) được gọi là "di sản kiến trúc". Tài sản văn hoá bất động được định nghĩa bao gồm không chỉ các di tích lịch sử và các di tích tiêu biểu mà quan trọng hơn là nó phải bao gồm các nhóm cấu trúc truyền thống và các khu phố lịch sử ở khu vực thành thị và nông thôn:
Điều 1a
Các kiến trúc, di tích khảo cổ, di tích lịch sử hoặc các di tích tiêu biểu khác có tính lịch sử, có giá trị khoa học, mỹ thuật, kiến trúc, dù là tôn giáo hay thế tục, bao gồm nhóm các công trình truyền thống, các khu phố lịch sử ở được xây dựng khu vực nông thôn hay thành thị và các công trình kiến trúc dân tộc học của những nền văn hóa trước đây vẫn tồn tại dưới hình thức hợp lệ. Nó áp dụng cho các di tích bất động như các tàn tích trên mặt đất cũng như các di tích khảo cổ học hay di tích lịch sử được tìm thấy bên dưới mặt đất. Thuật ngữ tài sản văn hoá cũng bao gồm bối cảnh của của các tài sản như vậy. Do đó, vào cuối những năm 1960, phạm vi di sản được định nghĩa trong Hiến chương Venice năm 1964 là di tích lịch sử đã được UNESCO và ICOMOS diễn giải một cách khác biệt. Mặc dù cả hai tổ chức đều nhất trí về nguyên tắc rằng di sản không còn giới hạn trong các di tích và các kiến trúc lịch sử và cần được mở rộng bao gồm các nhóm công trình kiến trúc và các khu phố lịch sử, thuật ngữ được sử dụng là khác nhau; trong khi UNESCO định nghĩa di sản như là 'tài sản văn hóa' (cultural property), ICOMOS lại định nghĩa di sản là "di tích và địa điểm/di chỉ" (Monuments and sites).
Năm 1972, các thuật ngữ khác nhau này và phạm vi di sản kiến trúc đã được hợp nhất tại Công ước UNESCO về Bảo vệ Di sản Văn hoá và Thiên Nhiên Thế giới, còn gọi là Công ước Di sản Thế giới 1972[5]. Công ước UNESCO coi di sản là di sản văn hoá và di sản thiên nhiên và những định nghĩa trước đây của UNESCO về di sản văn hoá di động và bất động sản đã bị loại bỏ. Định nghĩa các di tích và địa điểm/di chỉ đã được đề cập trong các quy chế ICOMOS thông qua năm 1965 đã được diễn đạt lại và một loại thứ 3 về nhóm các công trình kiến trúc cũng được đưa vào. Di sản văn hoá bây giờ được định nghĩa bao gồm các di tích, các nhóm các công trình kiến trúc và các địa điểm/di chỉ. Đây được coi là một động thái rõ ràng để đảm bảo rằng các nhóm các công trình kiến trúc và khu đô thị đang được bảo vệ. Di sản văn hoá được UNESCO định nghĩa năm 1972 như sau:
Điều 1: 1
Di tích (Monuments): Các công trình kiến trúc, các tác phẩm hội họa và điêu khắc kiến trúc, các yếu tố hoặc cấu trúc có tính chất khảo cổ học, minh văn, các di chỉ cư trú trong hang động và sự kết hợp giữa các di tích tiêu biểu có giá trị phổ quát nổi bật từ quan điểm lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học.
Nhóm các công trình kiến trúc(Groups of buildings): các nhóm kiến trúc tách biệt hoặc nối liền bởi kiến trúc, tính đồng nhất hoặc vị trí của chúng trong bối cảnh là giá trị phổ quát nổi bật từ quan điểm lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học.
Di chỉ/địa điểm khảo cổ (sites): các tác phẩm của con người hoặc các tác phẩm kết hợp của tự nhiên và con người, và các khu vực bao gồm các địa điểm khảo cổ có giá trị phổ quát nổ bật từ các quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.
Sau đó, theo luật sửa đổi của nó năm 1978[6], ICOMOS duy trì hai phạm trù rộng của tài sản văn hóa là di tích và di chỉ/địa điểm nhưng thêm “nhóm các công trình kiến trúc” như nhóm thứ 3 để giải thích rõ ràng bối cảnh đô thị và nông thôn và để được giống như những định nghĩa của UNESCO:
Điều 3b
Nhóm các công trình kiến trúc (group of buildings): bao gồm các nhóm kiến trúc tách biệt hoặc nối liền và xung quanh chúng, dù là đô thị hay nông thôn, bởi kiến trúc tính đồng nhất hoặc vị trí của chúng trong bối cảnh là giá trị phổ quát nổi bật từ quan điểm lịch sử, nghệ thuật, khoa học, xã hội hay quan điểm dân tộc học.
Thuật ngữ của UNESCO vẫn không thay đổi cho đến ngày nay. Tuy nhiên, với mục đích ghi tên di sản vào Danh sách Di sản Thế giới, thuật ngữ đã được chuyển từ 'Di sản Văn hoá' sang 'Tài sản văn hoá' và 'Di sản tự nhiên' sang 'Tài sản tự nhiên'[7].
Vào năm 1975 và 1979, phạm vi di sản đã được mở rộng để bao gồm các công viên lịch sử, thắng cảnh và môi trường ở Châu Âu[8] và Australia[9],  nhưng về ngữ nghĩa, phạm vi này không áp dụng được ở các quốc gia khác. Có thể nhận ra rằng các dự án bảo tồn và khôi phục trước đây chỉ tập trung vào việc bảo vệ các di tích và không phải xung quanh di tích nhưng bất kỳ sự thay đổi hoặc sự thiệt hại nào xung quanh di tích cũng sẽ ảnh hưởng đến việc bảo vệ các di tích.
Tuyên bố Amsterdam[10]
Được biết, tính liên tục lịch sử phải được bảo tồn trong môi trường nếu chúng ta duy trì hoặc tạo ra môi trường xung quanh cho phép các cá nhân tìm được bản sắc của họ và cảm thấy an toàn bất chấp những thay đổi đột ngột.
Điều này đã thúc đẩy Ủy ban Quốc tế về các Công Viên lịch sử của ICOMOS để xây dựng một hiến chương quốc tế tập trung cụ thể vào việc bảo tồn các khu vườn lịch sử trên toàn thế giới. Hiến chương Florence về Vườn/Công viên lịch sử[11] đã được thông qua vào ngày 15 tháng 12 năm 1982. Hiến chương coi các vườn lịch sử là những công viên nhỏ và lớn, dù là có hình thức hay có cảnh quan, và dù có hoặc không liên quan đến một công trình kiến trúc (Điều 6). Hiến chương này cũng xem các khu vườn lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với công chúng từ quan điểm lịch sử hay nghệ thuật và do đó có thể phân loại chúng thành những di tích theo quy chế ICOMOS năm 1978. Tất nhiên, bởi vì các khu vườn chủ yếu là thực vật và trùy thuộc vào tình trạng bị phân hủy và tái sinh, chúng được phân loại là “các di tích sống” (living monuments) đòi hỏi phải có các quy tắc bảo vệ đặc biệt. Đây là điều đáng quan tâm của Hiến chương Florence năm 1982.
Tương tự như vậy, sự quan tâm mở rộng rằng, di sản cũng nên bao gồm các yếu tố xã hỗi của các thị trấn lịch sử được để cập trong Tuyên bố Amsterdam 1975. Hiến chương ICOMOS về Bảo tồn các khu vực nông thôn và đô thị lịch sử, thường được gọi là Hiến chương Washington 1987[12], nhấn mạnh sự cần thiết bảo tồn các đặc tính lịch sử của các đô thị lịch sử, bao gồm môi trường tự nhiên và con người và nhiều chức năng khác mà các đô thị lịch sử có được qua thời gian. Điều này thừa nhận rằng "tất cả các cộng đồng đô thị, dù đã phát triển theo thời gian hay đã được tạo ra một cách cố ý, là một biểu hiện của sự đa dạng của các xã hội trong lịch sử" (Điều 1: 1)
Sự giải thích ở cấp quốc gia và khu vực
Vào cuối những năm 1970 và 1980, trọng tâm của các điều lệ quốc tế, các khuyến nghị và nghị quyết đã được đưa ra nhiều hơn để sàng lọc các nguyên tắc ở cấp quốc gia và khu vực. Sự cần thiết phải xây dựng các nguyên tắc quốc gia cụ thể đã được Công ước Venice năm 1964 công nhận trong lời mở đầu của nó:
Cần thiết phải thống nhất và đặt ra các nguyên tắc hướng dẫn bảo tồn và khôi phục các công trình kiến trúc cổ trên cơ sở quốc tế, mỗi quốc gia có trách nhiệm áp dụng kế hoạch trong khuôn khổ văn hoá và truyền thống của mình.
Tại châu Âu, Hội đồng châu Âu đã dẫn đầu thế giới bằng cách xây dựng và áp dụng các điều lệ khu vực liên quan đến tình hình các nước châu Âu - Hiến chương Châu Âu về Di sản Kiến trúc và Tuyên bố Amsterdam đã được thông qua tại Amsterdam vào năm 1975. Cả hai đều thảo luận về khái niệm mở rộng di sản kiến trúc và chiến lược thực hiện, khái niệm về bảo tồn tổng hợp và đặc biệt là vai trò của các cơ quan quản lý di sản kiến trúc. Tuyên bố Amsterdam năm 1975 đã mở rộng phạm vi di sản kiến trúc châu Âu từ những mối quan tâm trước đây chỉ đối với các công trình kiến trúc riêng biệt cho đến các nhóm kiến trúc và môi trường xung quanh, các khu phố cổ và các khu đô thị và làng mạc có lợi ích về lịch sử hoặc văn hoá, môi trường truyền thống và các tòa nhà hiện đại; những công trình kiến trúc hiện đại ngày nay sẽ là di sản của ngày mai. Nó cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì tính liên tục của các đặc trưng xã hội và vật chất hiện tại, cả ở các cộng đồng đô thị và nông thôn và nhu cầu hội nhập các yếu tố xã hội, như các chức năng xã hội và tĩnh xác thực về kinh tế, với chính sách quy hoạch di sản kiến trúc và thị trấn.
Sáng kiến của Hội đồng chung châu Âu để xây dựng các điều lệ chung giữa các nước châu Âu đã sớm được theo sau bởi các nước phát triển khác trên thế giới. Tại Úc, Australia ICOMOS đã soạn thảo và thông qua Hiến chương ICOMOS của Úc về Bảo tồn Các địa điểm có Ý nghĩa Văn hóa (cultural significance), thường được biết đến là Hiến Chương Burra 1979, tập trung vào ba khía cạnh: các nguyên tắc bảo tồn, quy trình bảo tồn và thực tiễn bảo tồn. Phạm vi di sản nói chung vẫn giữ nguyên như những gì đã được Hội đồng chung châu Âu đưa ra vào năm 1975, nhưng Hiến chương Burra đã đưa ra ba điều khoản mới:
place, đề cập đến địa điểm, khu vực, các tòa nhà hoặc các nhóm các công trình xây dựng hoặc các công trình khác cùng với các nội dung thích hợp và môi trường xung quanh;
cultural significance, đề cập đến giá trị thẩm mỹ, lịch sử, khoa học hoặc xã hội;
fabric, có nghĩa là tất cả vật chất vật chất của địa điểm.
Hiến chương Burra 1979 được sửa đổi vào năm 1981, 1988 và 1999 để phản ánh mối quan tâm hiện tại về di sản và bảo tồn ở Úc, bao gồm cả việc bảo tồn các giá trị vô hình. Nó thừa nhận các giá trị xã hội và thẩm mỹ như là một phần của ý nghĩa văn hoá, cũng như các giá trị phi vật thể hoặc di sản văn hoá phi vật thể được UNESCO đề cập đến như là một khía cạnh không thể tách rời của ý nghĩa di sản. Tầm quan trọng của các giá trị phi vật thể như là một phần của di sản đã được UNESCO nhấn mạnh khi thông qua một công ước vào năm 2003[13] đã giúp bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể, được định nghĩa là:
Điều 2 (Định nghĩa)
Sự thực hành, biểu đạt, diễn đạt, kiến thức, các kỹ năng, nhạc cụ, đồ vật, hiện vật và không gian văn hoá liên quan đến cộng đồng, nhóm người và cá nhân.
Ở Canada, một hiến chương cụ thể cho tỉnh Quebec đã được ICOMOS Canada soạn thảo năm 1982 do mối đe doạ về di sản của nó từ sự hiện đại hóa và theo đuổi lối sống mới. Hiến Chương bảo vệ Di sản Quebec[14] đã định nghĩa phạm vi di sản của Quebec trong ba thực thể chính: văn hoá vật chất (tài sản văn hoá), đại diện cho "toàn bộ môi trường vật chất mà chúng ta đang sống", bao gồm các công trình kiến trúc, các hiện vật khảo cổ và dân tộc học, đồ nội thất và các đối tượng nghệ thuật; môi trường địa lý, như bờ biển tự nhiên, núi non, đồng bằng - cảnh quan thiên nhiên và giá trị toàn cảnh; và môi trường con người có nền văn hóa, phong tục và truyền thống riêng.
Tại New Zealand, Ủy ban Quốc gia New Zealand của ICOMOS đã soạn thảo và thông qua một hiến chương bảo tồn cụ thể cho New Zealand, được gọi là Hiến chương về Bảo tồn Các Giá trị Di sản Văn hóa[15] tại hội nghị thường niên vào ngày 4 tháng 10 năm 1992. Hiến chương này đã thông qua thuật ngữ "địa điểm" (place) được đưa ra trong Hiến chương Burra nhưng mở rộng phạm vi bao gồm "đất được bao phủ bởi nước và không gian tạo thành bối cảnh không gian cho vùng đất đó" và "bất kỳ nguồn nước nào, dù nước ngọt hay nước biển, đều tạo thành một phần di sản lịch sử và văn hoá của New Zealand '(Điều 22: 5).
Ở Trung Quốc, ICOMOS Trung Quốc thông qua các Nguyên tắc bảo tồn di sản ở Trung Quốc[16] năm 2000, được soạn thảo với sự hợp tác của Viện Bảo tồn Getty và Ủy ban Di sản Úc. Nguyên tắc này cung cấp hướng dẫn chuyên nghiệp để bảo tồn di sản và cũng nêu rõ các tiêu chí để đánh giá tất cả các hoạt động bảo tồn trong nước. Không giống như các Hiến Chương của Úc và New Zealand xác định di sản của họ như là địa điểm (place), người Trung Quốc xác định chúng đơn giản chỉ là các di sản, được chấp nhận như là "những di vật vật chất không thể di chuyển được tạo ra trong lịch sử nhân loại và có ý nghĩa" (Điều 1: 1); trong số đó có các di tích và phế tích khảo cổ, các ngôi mộ, kiến trúc truyền thống, các chùa trong hang động và các ngôi làng và thị trấn lịch sử.
Tại các nước Đông Nam Á, đến nay, không có hiến chương, hướng dẫn hay các khuyến nghị được phát triển và thông qua bởi ICOMOS hoặc UNESCO. Tuy nhiên, Bộ trưởng Ngoại giao các nước này đã họp vào ngày 25 tháng 7 năm 2000 đã thông qua Tuyên bố ASEAN về Di sản văn hoá[17], định nghĩa di sản văn hoá là "cấu trúc, hiện vật, địa điểm và nơi cư ngụ của con người, di sản truyền khẩu hoặc văn hoá dân gian, di sản văn bản và di sản văn hoá phổ biến '. Tương tự như các quốc gia khác, phạm vi di sản ở Đông Nam Á nói chung bao gồm cả di sản vật thể và phi vật thể, nhưng các định nghĩa rộng hơn rất khác với những gì được sử dụng bởi UNESCO hoặc ICOMOS, đã thông qua các điều khoản di tích, nhóm các công trình kiến trúc và các di chỉ/địa điểm; hoặc với các nước láng giềng trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương định nghĩa 'địa điểm' (place) là di sản của họ. Mức độ sàng lọc phạm vi và các định nghĩa ở cấp quốc gia ở Đông Nam Á khác nhau. Ví dụ ở Việt Nam, di sản được định nghĩa là các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, và tại Philippines, di sản hiện nay được định nghĩa là tài sản văn hoá, bào gồm cả tài sản di động và bất động.
Vào cuối thế kỷ 20, phạm vi di sản, nói chung, đã được đồng thuận trên bình diện quốc tế bao di sản vật thể và phi vật thể cũng như môi trường. Để thông tin tốt hơn cho cộng đồng quốc tế, năm 1999, UNESCO đã làm rõ phạm vi giá trị di sản văn hóa vật thể như tài sản văn hoá bao gồm các di tích, các nhóm công trình kiến trúc và địa điểm/di chỉ (Điều 23: 5) và phạm vi của môi trường như các tài sản tự nhiên (Điều 43:10); và thông qua Công ước về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể (UNESCO, 2003), định nghĩa "di sản văn hoá phi vật thể" là:
(Điều 2: 2)
Các thực tiễn, biểu đạt, biểu thức, kiến thức, kỹ năng - cũng như các nhạc cụ, vật phẩm, hiện vật và không gian văn hoá liên quan đến các cộng đồng, các nhóm và, trong một số trường hợp, các cá nhân thừa nhận là một phần của di sản văn hoá của họ. Di sản văn hoá phi vật thể này, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, liên tục được các cộng đồng và các nhóm phản hồi liên tục để tái tạo lại môi trường, tương tác với thiên nhiên và lịch sử của họ, và mang đến cho họ một ý nghĩa về bản sắc và tính liên tục, sự sáng tạo của con người.
Điều này bao gồm truyền thống truyền miệng, cách biểu đạt, ngôn ngữ, nghệ thuật diễn xướng, thực hành xã hội, các nghi lễ, các sự kiện lễ hội và nghề thủ công truyền thống.
Tóm lược
Trong 40 năm qua, kể từ khi thông qua Hiến chương Venice năm 1964, đã có rất nhiều hướng dẫn bảo tồn dưới hình thức hiến chương, khuyến nghị, và các nguyên tắc trong đó có những định nghĩa cụ thể về phạm vi di sản và các định nghĩa rộng hơn . Phạm vi đã được mở rộng đáng kể từ mối quan tâm về các công trình riêng lẻ và các địa điểm/di chỉ bao gồm các nhóm các công trình kiến trúc, khu vực lịch sử, thị trấn, môi trường, các yếu tố xã hội và gần đây là di sản phi vật thể. Mặc dù phạm vi di sản đã được mở rộng bao gồm môi trường và các giá trị phi vật thể và đã nhận được sự nhất trí của các cộng đồng quốc tế, thuật ngữ tốt hơn về "di sản" chưa được sắp xếp hợp lý và không có sự thống nhất giữa các quốc gia. Mặc dù cả UNESCO và ICOMOS đều thống nhất về nguyên tắc rằng phạm vi di sản nên bao gồm cả di sản văn hoá và thiên nhiên, thuật ngữ "di sản văn hoá" bao gồm các di tích, các nhóm các tòa nhà và các địa điểm đã không được tuân thủ ở cấp quốc gia. Úc đề cập đến di sản của nó như là "địa điểm, ý nghĩa văn hoá và vải", Canada đề cập đến "văn hoá vật chất, môi trường địa lý và môi trường của con người", New Zealand đề cập đến "địa điểm" và Trung Quốc đề cập đến "dấu vết vật chất bất động" . Mặc dù đây là đặc quyền của mỗi quốc gia để xây dựng thuật ngữ và diễn giải di sản của riêng mình, nhưng nên theo một số thuật ngữ chung và phổ biến. Cần khuyến nghị rằng, UNESCO và ICOMOS nên dẫn đâu việc thảo luận về các thuật ngữ, phạm vi và thuật ngữ chung; và các quốc gia trên thế giới áp dụng chúng ở cấp quốc gia.
Notes
1 [1] Congress of Architects and Technicians of Historic Monuments (CATHM), the Venice Charter 1964.
2 [2] ICOMOS, Constitutive Assembly, 1965.
3 [3] UNESCO, 15th Session of the General Conference, 1968.
4 [4] UNESCO, The Hague Convention, 1954.
5 [5] UNESCO, the World Heritage Convention, 1972.
6 [6] ICOMOS, ICOMOS Statutes, 1978.
7 [7] UNESCO, Operational Guidelines, 1999.
8 [8] Council of Europe, European Charter of the Architectural Heritage 1975.
9 [9] ICOMOS Australia, the Burra Charter 1979.
10[10] Council of Europe, Amsterdam Declaration, 1975, 2.
11[11] ICOMOS, the Florence Charter 1982.
12[12] ICOMOS, the Washington Charter 1987.
13[13] UNESCO, 32nd Session of the General Conference, 2003.
14[14] ICOMOS Canada, Quebec Charter 1982.
References
ASEAN Foreign Ministers. ASEAN Declaration on Cultural Heritage, Bangkok, July 2000.
Congress of Architects and Technicians of Historic Monuments (CATHM). The International
Charter for the Conservation and Restoration of Monuments and Sites, Venice, 1964 (the Venice Charter 1964).
Council of Europe (CoE). The Declaration of Amsterdam. Congress on the European Architectural Heritage, Amsterdam, October 1975.
Council of Europe (CoE). European Charter of the Architectural Heritage. Committee of Ministers of the Council of Europe, Amsterdam, 21–25 October 1975.
ICOMOS. Report on the Constitutive Assembly, Warsaw, Poland, 21–22 June 1965.
ICOMOS. ICOMOS Statutes, 1978.
ICOMOS. Historic Gardens, Florence, Italy, 15 Dec 1982.
ICOMOS. Charter on the Conservation of Historic Towns and Urban Areas. 8th General Assembly, Washington, DC, October 1987.
ICOMOS Australia. The Australian ICOMOS Charter for the Conservation of Places of Cultural Significance, Burra, Australia, 1979.
ICOMOS Australia. The Australian ICOMOS Charter for Places of Cultural Significance, Australia, 1999.
ICOMOS Canada. Charter for the Preservation of Quebec’s Heritage, Quebec, Canada, April 1982.
ICOMOS China. Principles for the Conservation of Heritage Sites in China, Chengde, October 2000.
ICOMOS New Zealand. Charter for the Conservation of Places of Cultural Heritage Value, New Zealand, October 1992.
UNESCO. Convention for the Protection of Cultural Property in the Event of Armed Conflict, The Hague, 1954.
UNESCO. Recommendation Concerning the Preservation of Cultural Property Endangered by
Public or Private Works. 15th Session of the General Conference, Paris, 1968.
UNESCO. Convention Concerning the Protection of the World Cultural and Natural Heritage, Paris, 1972.
UNESCO. Operational Guidelines for the Implementation of the World Heritage Convention. World Heritage Committee, Paris, 1999.
UNESCO. Convention for the Safeguarding of the Intangible Cultural Heritage. 32nd Session of the General Conference, Paris, 29 September–17 October 2003.







Gazi University Journal of Science
GU J Sci
25(1):235-243 (2012)
ORIGINAL ARTICLE
Cultural Heritage Management: The Case of Historical Peninsula in İstanbul
Nevin GÜLTEKİN1
1
Gazi University, Faculty of Architecture, Department of City and Regional Planning, 06570 Ankara
Received: 24.02.2011 Accepted: 02.06.2011
Quản lý di sản văn hóa: Trường hợp hợp bán đảo lịch sử ở Istanbul
Người dịch: NHN
Tóm tắt
Mặc dù được định nghĩa theo các tiêu chí khác nhau ở cấp quốc gia và quốc tế, các nước liên quan tuân theo các hướng dẫn do Ủy ban Di sản Thế giới chuẩn bị. Trong sự hợp tác này, các mô hình quản lý phù hợp với quản trị và nguyên tắc sở hữu địa phương đang được xây dựng. Ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng như vậy, các quy định pháp luật về quản lý di sản văn hoá, năm 2004, dựa trên luật pháp/hiến chương quốc tế. Do đó, bài viết này đánh giá quá trình này thông qua các di tích lịch sử của İstanbul và đưa ra các đầu mối về cách quản lý có thể được phát triển vì mục đích bảo tồn di sản văn hoá không chỉ đối với di sản thế giới mà còn ở cấp quốc gia.
Từ khóa: Di sản văn hoá (CH), Quản lý di sản văn hoá (CHM), Kế hoạch quản lý di sản (HMP), Kế hoạch quản lý các địa điểm khảo cổ (SMP), İstanbul.
1. Giới thiệu: Khái niệm Di sản văn hoá (CH) và sự phát triển của nó
Các khái niệm về bảo tồn các di tích, tăng giá trị thẩm mỹ, các kỹ thuật phục dựng, huấn luyện bảo vệ và bảo tồn đã được định nghĩa ở quy mô quốc tế thông qua Hiến Chương Athens về phục dựng các di tích lịch sử năm 1931 và nó đã được quy định rằng các quy định pháp luật liên quan đến các vấn đề này cần được phác thảo chi tiết ở mỗi quốc gia. Sau sự kiện này, chủ nghĩa quốc gia đang nổi lên như Chiến tranh thế giới thứ hai và những nỗ lực để tạo ra một nền văn hoá chung châu Âu đã được coi là những bước ngoặt trong việc tuyên bố di sản văn hoá. Vào những năm 1950, đặc biệt, việc phá huỷ quy mô lớn gây ra bởi chiến tranh và sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ làm cho người ta nhận ra rằng môi trường sống của họ là một phần của bản sắc văn hoá của họ [1]. Trong thời kỳ này, tính xác thực (authenticity) được coi là một trong những khái niệm cơ bản trong việc cải tạo môi trường vật chất bị đánh bom nhằm mục đích đạt được sự liên tục văn hóa [2].
Với cuộc thảo luận về di sản chung của nhân loại trong các phong trào bảo vệ môi trường vào đầu những năm 1970, khái niệm về di sản văn hoá được định nghĩa thông qua Công ước về Bảo vệ Di sản Văn hoá và Thiên nhiên Thế giới được chấp nhận lần đầu tiên vào năm 1972 tại Paris và được thực hiện vào năm 1975 và thuật ngữ "tài sản" (property) được thay thế bằng "di sản" (heritage). Thông qua nội dung mới này, theo Điều 1 của công ước, di sản văn hoá (CH) và khu vực di sản văn hoá (CHA) đã được phân loại thành "monuments", là những kiệt tác kiến trúc có giá trị phổ quát về lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học, các tác phẩm xuất sắc trong các lĩnh vực điêu khắc và hội họa, có tính chất chất khảo cổ học, văn bia, hang động, nhà ở và kết hợp các công trình tương tự; "Các tổ hợp các công trình xây dựng" (building compounds), là các tòa nhà tách biệt hoặc phức hợp có có giá trị đặc biệt liên quan đến kiến trúc hoặc vị trí của chúng trong thực địa; và "các khu vực được bảo vệ" (protected areas) là những khu vực bao gồm các kiệt tác của nhân loại, tự nhiên, hoặc của nhân loại và tự nhiên kết hợp với giá trị đặc biệt không chỉ trong lĩnh vực khảo cổ học mà còn về lịch sử, thẩm mỹ học, dân tộc học và nhân chủng học [3]. Mặc dù sự phân loại này vẫn không thay đổi mặc dù thực tế được thực hiện bởi UNESCO trong các hoạt động liên quan đến Danh sách Di sản Thế giới, các thuật ngữ như "di sản văn hoá" (cultural heritage) được thay thế bằng "tài sản văn hoá" (cultural assets) và "di sản thiên nhiên" (natural heritage) được đổi thành "tài sản tự nhiên" (atural asset) [4]. Ủy ban Di sản Thế giới (WHC) cũng sử dụng thuật ngữ này.
Cuối cùng một khuôn khổ định nghĩa về di sản văn hóa được chấp nhận rộng rãi trên thế giới được nêu ra trong điều lệ tại Đại Hội Đồng 16 và cuối Hội nghị khoa học Quốc tế được tổ chức bởi Hội đồng Di chỉ và di vật Quốc tế (ICOMOS) ở Quebec, Canada năm 2008, theo đó CH là một “khu vwch, cảnh quan tự nhiên, phức hợp kiến trúc hoặc địa điểm, thường được bảo vệ hợp pháp bởi ý nghĩa lịch sử và văn hoá của nó" [5]. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, trong các định nghĩa được nêu ra trong các văn bản liên quan xuất phát từ những quan điểm và phạm vi khác nhau thì di sản văn hóa không chỉ bao gồm thế giới vật chất và hữu hình mà còn bao gồm toàn bộ các yếu tố của cuộc sống (ngôn ngữ, khiêu vũ, âm nhạc, văn hóa dân gian và các yếu tố tương tự) [6, 1]. Trong bối cảnh đô thị, di sản văn hóa không chỉ được xem như một thứ gì đó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bởi sức chi phối liên tục của nó mà còn là một điều gì đó với khao khát được đánh giá và trải nghiệm bao quát nhất, hoặc như giá trị/lợi ích hiện đại của quá khứ (modern uses of the past). Những xác nhận này báo hiệu sự quan trọng của quản lý trong việc đạt được được sự cân bằng giữa bảo tồn và sử dụng di sản văn hoá một cách hiệu quả [8].
2. Quản lý di sản văn hóa (CHM)
Với mục đích khám phá những lợi ích nhưng đồng thời đối phó với những đe dọa từ toàn cầu hóa, nhiều quốc gia đã điều chỉnh chính sách văn hóa của họ song song với cách nhìn dân chủ hóa, điều đó cho thấy chính quyền địa phương xem xét việc phân cấp và quản lý là rất quan trọng trọng việc bảo tồn và duy trì CH. Để thực hiện được mục tiêu này, UNESCO từ năm 1985 đã xác định những tiêu chí của mình để làm việc với chính quyền trung ương thì đến nay đã thích ứng để làm việc với chính quyền địa phương và các tổ chức  phi chính phủ đã hoạt động tích cực trong việc bảo tồn CH trên toàn thế giới [9, 10, 11 và 12]. Trong quá trình này, các cách tiếp cận liên quan đến việc quản lý các di tích khảo cổ học và di sản thiên nhiên thế giới và Hướng dẫn hoạt động để thực hiện Công ước Di sản Thế giới (Operational Guidelines for the Implementation of the World Heritage Convention) – tổ chức đã đưa ra những cách tiếp cận này là những người đi tiên phong trong Quản lý Di sản Văn hoá. Trong Hướng dân hoạt động, năm 1983, yêu cầu quản lý đối với ứng viên di sản đầu tiên và việc lập kế hoạch cho các tài sản văn hoá đã được khuyến khích [13].
Trong Hướng dẫn hoạt động năm 1988, sự nhấn mạnh của sự cần thiết phải có các quy định cung cấp cơ chế bảo vệ, cơ chế quản lý và tiếp cận công khai cho các tài sản văn hoá hoặc các khu vực được bảo vệ đã được nhấn mạnh [14]. Tuy nhiên, thuật ngữ CHM đã được sử dụng, lần đầu tiên, trong Điều lệ bảo vệ và quản lý di sản khảo cổ học của ICOMOS [15], năm 1990, và bởi ICOMOS - Uỷ ban khoa học quốc tế về quản lý di sản khảo cổ (The International Scientific Committee on Archaeological Heritage Management) [16]. Năm 1992, các nguyên tắc cơ bản liên quan đến quản lý di sản của bộ phận văn hoá của UNESCO và ICOMOS đã được xuất bản trong Hướng dẫn Quản lý các Di sản Thế giới (GMWHS). GMWHS năm 1994, có yêu cầu các quốc gia liên quan nên chứng minh sự đảm bảo cho việc thực hiện các luật liên quan đến quản lý di sản, các cơ chế bảo vệ và quản lý thông thường cũng đã được phê duyệt và các kế hoạch quản lý dự kiến cũng hy vọng phản ánh các đặc điểm của di tích, di chỉ [ 13]. GMWHS cũng bao gồm Hướng dẫn điều hành được soạn thảo bởi Feilden và Jokilehto vào năm 1993 và đã được sửa đổi và công bố bởi Trung tâm quốc tế về Nghiên cứu Bảo tồn và Phục hồi Văn hoá (ICCROM) năm 1998 [17, 27]. Cơ sở dữ liệu và công việc kiểm kê, tài liệu, cấu trúc quản lý, chính sách tài chính, công cụ pháp lý, chương trình và các giai đoạn tài trợ của Hướng dẫn Hoạt động Hướng dẫn này đến quản lý di tích.
Trong quá trình phát triển này, CHM có thể được phân tích như một quá trình và / hoặc hướng dẫn đảm bảo sự hợp tác và giám sát cần thiết cho việc cân bằng sử dụng-bảo tồn giữa tất cả các bên liên quan và chính quyền địa phương nhằm mục đích quản lý có hiệu quả và hợp lý thông qua các luật pháp xuyên quốc gia và / hoặc quốc gia và các chính sách bền vững. Trong CHM, trong Điều 110 của Hướng dẫn Hoạt động, điều khoản nói rằng "hệ thống quản lý cần mang lại hiệu quả trong việc bảo vệ các giá trị di sản thế giới và một hệ thống quản lý chủ động phụ thuộc vào từng loại hình, đặc điểm và điều kiện tự nhiên-văn hoá của tài sản" sẽ giải thích các biến số gây ra sự khác nhau trong quản lý. Trong các tài liệu liên quan, CHM được xác định thông qua các khái niệm khác nhau thay đổi theo các nguyên tắc với các lĩnh vực quan tâm khác nhau và ý nghĩa gắn liền với di sản văn hoá (quản lý di sản (heritage management), quản lý nguồn tài nguyên văn hoá (cultural resource management), quản lý di sản khảo cổ (archeological heritage management), và tương tự) và hơn nữa, quản lý tài nguyên văn hoá hoặc khảo cổ học thường được sử dụng thay cho nhau [2]. Tuy nhiên, khi được coi là các thuật ngữ "tài nguyên" (giá trị kinh tế của tài sản) và "di sản" (một giá trị văn hoá có giá trị vượt quá giá trị bằng tiền) là mâu thuẫn [18]. Điều này không đúng. Quản lý tài nguyên văn hoá xuất hiện như là nghiên cứu, các hoạt động và các quy định nhằm bảo tồn và giải thích nguồn tài nguyên lịch sử và khảo cổ học [19] hoặc phương pháp luận về những gì cần được bảo vệ trước đây và làm sao để sử dụng chúng ngày nay và phục vụ tương lai. Trong khuôn khổ này, nó cũng được định nghĩa là quản lý khách du lịch với mục đích tăng cường sự ngưỡng mộ và kinh nghiệm của du khách [20].
2.1. Quá trình và các giai đoạn của nó
Trong Điều 111 của Hướng dẫn Hoạt động năm 2008, việc quản lý dự kiến sẽ hoạt động, và các giai đoạn quản lý đã được chỉ định là "lập kế hoạch, thực hiện, giám sát, đánh giá, phản hồi". Trong Điều 112, Quá trình Quản lý đã được chỉ rõ là chu trình các kế hoạch bao gồm các hoạt động dài hạn và hàng ngày và việc thực hiện, kiểm soát và đánh giá các kế hoạch này trong việc bảo vệ các di sản thế giới cho các thế hệ tương lai [21] .
Trong CHM, các giai đoạn "nhận diện và xác định các đặc tính của địa điểm, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý và hình thành việc quản lý, thực hiện và giám sát" là những thành tố cơ bản của "lập kế hoạch, lập trình, và cấp vốn." Mặt  khác, có ba giai đoạn trong hoạt động của nó.  Giai đoạn quốc gia (The national stage) là định nghĩa, tài liệu, phân loại, nghiên cứu, và việc chuẩn bị các báo cáo ngắn hạn (dưới 5 năm) và dài hạn (5-30 năm) về kế hoạch phát triển hàng năm. Giai đoạn khu vực (The regional stage) bao gồm thông tin cho công chúng thông qua các báo cáo hàng năm và sự nuôi dưỡng và kiểm soát việc bảo vệ. Giai đoạn địa phương (The local stage) là ở cấp thấp hơn, gồm các cơ sở cho việc quản lý, bao gồm cả việc tạo ra đội ngũ quản lý, kiểm soát ngân sách, chuẩn bị và áp dụng kế hoạch quản lý và nâng cao nhận thức cho cộng đồng [22, 11]
2.2. Kế hoạch Quản lý Di sản (HMP - Heritage Management Plan)
Trong những năm 2000, trong các cuộc họp báo thường kỳ của Ủy ban Di sản Thế giới, kế hoạch quản lý đã được kỳ vọng nằm trong viên danh sách các ứng cử di sản thế giới, và kế hoạch quản lý liên quan đến tài sản văn hoá đã được đề cập đến, lần đầu tiên, trong đoạn thứ 108 của GMWHS năm 2005 , và do đó, các kế hoạch quản lý đã được yêu cầu trong CHM [23]. Yêu cầu này dựa trên thực tế là CHM được duy trì theo một kế hoạch quản lý và nó là một quá trình năng động với cơ chế kiểm soát của nó liên tục làm việc. Do đó, kế hoạch quản lý, như một quá trình xác định tầm quan trọng của di tích và các mục tiêu cần thiết cho việc quản lý, giám sát tình trạng của các nguồn lực và sự hài lòng của khách truy cập và liên tục phát triển và biến đổi để quản lý và sử dụng có thể được định nghĩa là một sự xác nhận được viết, công bố và được chứng nhận giữa các đối tác [24] và như một hướng dẫn tương thích linh hoạt đưa ra các đặc điểm của di tích và các mục tiêu quản lý [25, 26, 27].
Kế hoạch quản lý là hình dáng của các tài liệu và hoạt động liên quan đến những điều quan trọng của di tích và xác định các chính sách thích hợp trong việc bảo vệ di tích để sử dụng di tích trong tương lai [28, 29]. Do đó kế hoạch quản lý bao gồm các mục tiêu và chính sách liên quan đến việc bảo vệ.
Ủy ban Di sản Thế giới không có định dạng kế hoạch quản lý hoặc phong cách tổ chức cho kế hoạch quản lý. Tuy nhiên, để kế hoạch quản lý có hiệu quả và đầy đủ, các điều kiện tối thiểu là "việc chuẩn bị báo cáo xác định mức độ bảo vệ liên quan đến tầm quan trọng của địa điểm và CH của nó và phương tiện của chúng, xác định các kế hoạch khác có liên quan đến các quy tắc về quy hoạch bảo vệ và khung pháp lý, và đưa ra các đề nghị liên quan đến nhân sự cần thiết để hình thành và thực hiện một kế hoạch và phát triển các cơ hội [21].
Các kế hoạch quản lý (ví dụ như Kế hoạch Quản lý Edinburgh năm 2005 [30], Kế hoạch quản lý của Liverpool năm 2003 [31], Ví dụ về Kế hoạch Quản lý Syracuse 2005 [32]) thường bao gồm ba giai đoạn giữa các phản hồi được sử dụng.
Giai đoạn Quản lý (The Management Stage); bao gồm những phân tích và giá trị di tích, các khu vực quản lý phụ, nhóm làm việc, các chương trình, các tổ chức hành động và chức năng, cơ cấu hành chính và các cơ hội, và việc thiết lập quản lý địa điểm.
Giai đoạn  sử dụng (thực hiện kế hoạch)-The Utilization (implementation of the plan) Stage; bao gồm các chính sách bảo vệ-sử dụng, tổ chức di tích, sự xem xét sử dụng, sự tham gia của các đối tác và các chương trình đào tạo.
Giai đoạn phát triển (The Development Stage); gồm các cơ hội quản lý, sự hài lòng của du khách, việc phục dựng, nuôi dưỡng và phát triển các phương pháp và chiến lược phù hợp để đạt được những mục tiêu này. Việc sửa đổi và đổi mới kế hoạch thông qua hệ thống phản hổi cũng diễn ra ở giai đoạn này [33, 27].
Việc chuẩn bị kế hoạch quản lý đòi hỏi một đội ngũ đa ngành cùng với một ban cố vấn và một nhóm riêng biệt thực hiện nghiên cứu trong hiện trường và tiếp cận thông tin. GMWHS do Ủy ban Di sản Thế giới chuẩn bị được gợi ý như là các giai đoạn và quá trình chuẩn bị các kế hoạch quản lý. Trong các công việc này, điểm chung là việc chuẩn bị kế hoạch phải là một quá trình liên tục, nên các kế hoạch cần được giải thích lại bằng việc bổ sung các dữ liệu mới (theo các biến số xã hội, kinh tế) và nhiều giai đoạn được sửa đổi liên tục và các đối tác tham gia được bổ sung.
3. Quản lý di sản văn hóa ở Turkey
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, yêu cầu bảo vệ CH phải dựa trên sự hiểu biết về quản lý tại chỗ bởi những lý do như mâu thuẫn trong cơ cấu pháp lý và tổ chức và sự đa dạng của các đối tác. Trong những năm 2000, hòa nhập vào quá trình toàn cầu hóa hoặc tăng cường các chính sách mở cửa ra bên ngoài, thực hiện nhiều thoả thuận hợp pháp cho ý tưởng gia nhập Liên minh Châu Âu và chính quyền địa phương thông qua tuyền bố về bảo tồn sau khi thành lập Liên minh Các thành phố Lịch sử đã được xác định trong sự phát triển này. Cùng thời gian này, với sự khám phá của thủ đô và chính phủ về những cơ hội mà di sản văn hoá mang lại cho du lịch dân túy và lợi nhuận thu được ở đô thị đã làm gia tăng những lo lắng về sự nuôi dưỡng/nguồn sống (sustenance) di sản văn hoá. Như vậy, với sự sắp xếp trong luật bảo quản từ năm 2004, chính phủ đã lần đầu tiên thực hiện việc quản lý các khu vực bảo vệ thông qua việc định nghĩa "quản lý di tích" (site management). Do đó các tài liệu về bảo tồn đã được đưa vào các thuật ngữ như "Quản lý khu vực" (management area), "quản lý di tích" (site management) và "kế hoạch quản lý" (management plan) [27].
Theo quan điểm pháp lý, việc quản lý địa điểm chỉ được thực hiện trước tiên đối vớic di sản thiên nhiên (khu bảo tồn) và các di chỉ khảo cổ học. Tuy nhiên, thực tế là pháp luật bao gồm một phương pháp tiếp cận đa chiều (luật pháp, hành chính, tài chính) và đa đảng báo hiệu CHM. Hơn nữa, thuật ngữ "khu bảo vệ" (protected area) trong định nghĩa khu vực quản lý theo khái niệm và hợp pháp bao gồm CHA.
3.1. Khu vực quản lý - Management Area
            Trong quản lý di sản, khu vực cần được bảo vệ ưu tiên và được quản lý cho mục đích này được xác định hợp pháp. Phù hợp với Site Management, ngày 27 tháng 11 năm 2005, và với Điều 4 của Quy chế liên quan đến các nguyên tắc và yếu tố liên quan đến việc xác định các khu vực quản lý trong Foundation and Responsibilities of the Monumental Masterpieces Council, khu vực quản lý (management area) được định nghĩa là "các khu vực được chỉ định (areas designated) , bởi Bộ sau khi nhận được ý kiến từ các tổ chức có liên quan, nhằm mục đích bảo vệ, trong trạng thái tự nhiên, các khu vực được bảo vệ, các khu vực lịch sử, và các khu vực tương tác, đưa chúng vào sử dụng, cải thiện chúng thông qua một tầm nhìn và chủ đề cụ thể và đáp ứng nhu cầu văn hoá và giáo dục, thiết lập sự hợp tác giữa chính quyền trung ương và địa phương có thẩm quyền trong việc lập kế hoạch và bảo tồn và các tổ chức phi chính phủ ". Trong Điều 6 của Quy chế tương tự, quy trình quản lý khu vực được xác định (Hình 1) cũng được giải thích.


3.2. Quản lý di tích - Site Management
Trong Điều 1 của Luật số 5226, được hợp nhất vào vào Luật số 2863 năm 2004, quy định rằng, trong CHA, "khu vực quản lý được xác định thông qua các điểm giao nhau của khu vực tương tác của di tích, đối với mục đích thiết lập sự hợp tác giữa các chính quyền trung ương và địa phương và các tổ chức phi chính phủ chuyên về lĩnh vực này, cung cấp dịch vụ hiệu quả và bảo vệ những khu vực này phù hợp với các thể chế trong nước và quốc tế "và với Điều 2 bổ sung, đã được quyết định rằng "quản lý di tích (site management ) được hình thành trong các khu vực quản lý (management areas)”. Bộ Văn hoá và Du lịch đã phối hợp với các cơ quan có liên quan (Hình 1) bắt đầu quản lý địa điểm ở nhiều CHA, chủ yếu ở các địa điểm được liệt kê hoặc đề cử Di sản Thế giới và Danh sách Tạm thời bằng cách đề xuất khu vực quản lý. Ngoài ra, Bộ đang hình thành "quản lý bảo tàng"  (museum management) cho các khu vực lịch sử, và "hội đồng kiệt tác kiến trúc" cho các công trình kiến trúc (monumental masterpieces council).
Trong Quy định quản lý di tích (Điều 5), mục tiêu của quản lý di tích cũng đã được chỉ rõ;
·       Xác định chính xác vị trí quản lý và các điểm giao nhau với khu vực tương tác, bảo vệ duy trì vị trí quản lý phù hợp với các nguyên tắc và hợp đồng bảo tồn quốc tế, và chỉ rõ các nguyên tắc sử dụng và sửa đổi;
·       Xây dựng chiến lược, phương pháp, công cụ và nguồn lực tài chính để tăng giá trị của di tích và để đạt được vị thế quốc tế; hỗ trợ du lịch văn hoá;
·       Thiết lập mối quan hệ hợp tác giữa các đối tác;
·       Sử dụng các tiêu chuẩn cao trong quản lý, bảo tồn, thiết kế và thực hiện, chuyên môn và trang thiết bị
Việc thành lập tổ chức mới này (Site Head, Advisory Board, Coordination and Supervision Board, Supervision Unit), được thành lập trên cơ sở là Quản lý Di tích, và sự tương hợp của hệ thống chính quyền địa phương liên quan (dưới sự giám sát của Bộ liên quan) (Hình 1).
3.3. (Di tích) kế hoạch quản lý (SMP)- (Site) Management Plan (SMP)
SMP là công cụ để thực hiện CHM. Các thuộc tính cơ bản của kế hoạch này là nó là một cơ chế thận trọng với hình thức nguyên nhân và hiệu quả, giải quyết vấn đề liên quan đến các mối đe dọa cũng như scơ hội và sự hòa giải giữa các đối tác, và một quá trình không phủ nhận các phán đoán về giá trị là có hệ thống, toàn diện và bền vững [24, 34], và linh hoạt và dễ dàng cập nhật ở các khoảng thời gian đều đặn [35]. SMP là một kế hoạch của những nỗ lực tập thể của các đơn vị ảnh hưởng và hướng dẫn các di tích bằng cách sử dụng các công cụ và phương pháp pháp lý, hành chính, tài chính và kỹ thuật, qua đó hoạch định việc quản trị và chuyển quỹ phù hợp với các nguyên tắc tham gia và xác định việc quản lý và chiến lược [26]. Sự thành công của Kế hoạch Quản lý dựa chủ yếu vào sự kết nối hiệu quả với các kế hoạch hoặc tài liệu khác nhau (như hoạt động, kinh doanh, phân vùng, phát triển, quản lý di tích, bảo tồn, kế hoạch tổng thể) bắt nguồn hoặc được hỗ trợ bởi các kế hoạch này [ 34, 36].
SMP ở Thổ Nhĩ Kỳ, cùng với các thuộc tính của nó được định nghĩa trong Điều 3 của Quy định Quản lý di tích là "các kế hoạch, sửa đổi 5 năm một lần và chỉ ra các giai đoạn thực hiện và ngân sách hàng năm và 5 năm của dự án bảo vệ và phát triển, có tính đến các dự án hành chính, kế hoạch khai quật và tổ chức môi trường hoặc kế hoạch bảo tồn, tất cả đều nhằm mục đích bảo vệ, nuôi dưỡng và đánh giá khu vực quản lý. " Cũng theo Điều 5 của Quy định này, SMP gồm năm giai đoạn (Hình 2).

4. Kế hoạch quản lý di tích ở các khu vực lịch sử của Istanbul – (Site) Management plan in Istanbul’s historical areas
Năm 1983, Thổ Nhĩ Kỳ hứa sẽ bảo vệ di sản thế giới mà họ có được và để bảo vệ những di sản này, họ đã thực hiện cam kết trong luật bảo tồn năm 2004, và cho tới trước trước năm 2005 khi GMWHS coi kế hoạch quản lý như là bắt buộc (xem 2.2). Tuy nhiên, vẫn chưa có một SMP nào được thực hiện. SMP được chuẩn bị cho Khu vực lịch Sử của Istanbul (Bán Đảo Lịch sử) bao gồm bốn khu vực chính: Công viên Khảo cổ (Hình 3), Nhà thờ Hồi giáo Süleymaniye và khu bảo tồn liên quan, Nhà thờ Hồi giáo Zeyrek và khu bảo tồn liên quan, Vách Đá của İstanbul (Hình 4), được liệt kê là di sản thế giới năm 1985.
Vị trí chiến lược trên Bán đảo Lịch sử giữa Balkans và Anatolia, Biển Đen và Địa Trung Hải, İstanbul đã được kết nối với các sự kiện chính trị, tôn giáo và nghệ thuật lớn hơn 2000 năm. İstanbul và / hoặc bán đảo lịch sử là thủ đô của ba đế quốc lớn: Đông Roman, Byzantine và Ottoman. [37], vì vậy nó đã được đăng ký như là một di tích Khảo cổ học, Khảo cổ học đô thị, di tích lịch sử và đô thị ở cấp quốc gia vào năm 1995. Theo đó, quá trình đạt được SMP phù hợp với dự báo của WHCICOMOS, giám sát tình trạng bảo vệ bán đảo lịch sử từ năm 2000 sẽ được chỉ dẫn bởi quản lý CHA cấp quốc gia / quốc tế ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào năm 2003, điều khiến Bán đảo Lịch sử không thành công theo quan điểm của WHC (Quyết định 7COM 7B.79) là thiếu SMP và kế hoạch bảo tồn-công cụ áp dụng của SMP [38]. Đặc biệt, Báo cáo nhiệm vụ nhiệm kỳ thứ 30 của WHC (và Quyết định 30COM) năm 2006 nhấn mạnh rằng, giống như một công cụ để giám sát, việc bảo vệ sự thống nhất sẽ bao gồm khu vực bị ảnh hưởng của di sản thế giới và các sáng kiến xây dựng mới " một kế hoạch quản lý toàn diện và tổng thể "là bắt buộc. Bên cạnh đó, thực tế là các dự án xây dựng cao tầng đang được triển khai trong khu vực, tượng đài tưởng niệm Hagia Sophia của Công viên Khảo cổ được mở ra để xây dựng (như Khách sạn Four Seasons), và việc tân trang lại được ưu tiên trong việc khôi phục vải ở các quận Zeyrek và Süleymaniye trực tiếp chú ý đến Luật 5366 (như Süleymaniye, Sulukule, Tarlabaşı là các khu vực cải tạo) để bảo tồn bằng cách cải tạo và sử dụng bằng cách làm mới lại tài sản văn hóa và lịch sử đang bị hủy hoại, ngày 2 thông qua " việc đổi mới hơn là đổi mới thông qua việc bảo vệ "[34], có hiệu lực.
Để ngăn chặn những tiêu cực này, trong báo cáo có nêu rằng, theo các Quy định quản lý Kế hoạch Quản lý Di sản Thế giới và tiến trình cuối cùng của Hội nghị Quốc tế về Di sản Thế giới và Kiến trúc Hiện đại được tổ chức vào năm 2005 (được gọi là " Vienna Memorandum ") và các tiêu chuẩn quốc tế, sự tham gia của tất cả các đối tác và sự phối hợp của tất cả các cơ quan lập kế hoạch, thành lập Phòng Điều phối Di sản Thế giới và sự biên nhận được sự hỗ trợ của chính phủ (pháp lý, kỹ thuật, tài chính, giáo dục,v.v.v) có thể đạt được [39]. Người ta cũng mong đợi rằng, đối với SMP, các đường biên của Sultanahmet, Süleymaniye, Zeyrek và Theodosius Walls sẽ được thay đổi để chúng có thể giao cắt với biên giới của Khu Bảo vệ Các Di sản Thế giới. Những kỳ vọng này chỉ ra rằng, trong việc quản lý địa điểm, giai đoạn chuẩn bị, mức độ tham gia, và các tiêu chuẩn bảo tồn / phục hồi không ở mức độ phù hợp và thích hợp.
Phiên họp thứ 32 của WHC, Báo cáo nhiệm vụ (và Quyết định: 32 COM 7B.110) năm 2008, nhìn chung đề cập đến các vấn đề phát triển trong các lĩnh vực quản lý và điều phối, các tiêu chuẩn bảo tồn, đánh giá tác động đối với các dự án phát triển mới, các dự án đổi mới và cải tạo đô thị , sự suy giảm khảo cổ học và giảm nhẹ thiên tai ở bán đảo lịch sử đáng lo ngại.
Báo cáo này bao gồm các nhận xét quan trọng về các vấn đề như nghiên cứu về vùng đệm, xây dựng kế hoạch quản lý, mặc dù đã được bắt đầu nhưng chưa hoàn thành, và Kế hoạch Bảo tồn Đô thị 1 / 5.000 (Hình 3), là một phần không thể thiếu của kế hoạch quản lý bị Toà án nhà nước tạm đình chỉ và sự điều chỉnh các khu bảo vệ mức độ đầu tiên (Dự án Đổi mới Süleymaniye, Nghiên cứu Khu vực Zeyrek, Khu Đổi mới Khu Đô thị Thổ Nhĩ Kỳ Ayvansaray và Nghiên cứu Cankurtaran và Sultanahmet) chưa hoàn chỉnh, kế hoạch quản lý du lịch và một kế hoạch tổng thể về quản lý giao thông không tồn tại, việc xây dựng các tòa nhà cao tầng mới tại bán đảo lịch sử và các vùng đệm của nó không bị ngăn chặn (tháp Dubai, tháp Bosphorus, cây cầu mới bắc qua Golden Horn) và dự án Marmaray trong Công viên khảo cổ học đang được tiếp tục [41].



Rõ ràng, các vấn đề bị chỉ trích trong báo cáo liên quan đến sự thực thi mà đe dọa đến khu vực không có tầm nhìn, đến chính sách bảo vệ, chiến lược và mục tiêu, và các kế hoạch hành động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn và các dự án đang được xác định đồng thời phủ nhận SMP và các giai đoạn của nó.
Trong kỳ họp thứ 33 của WHC, Báo cáo nhiệm vụ (và Quyết định 33COM 7B.124), năm 2009, các đề xuất và phê bình của các nhiệm vụ năm 2006 và 2008 được lặp lại, và nó bị chỉ trích là liên quan đến quản lý khu vực, kế hoạch quản lý tổng thể và quy hoạch mở rộng, kế hoạch du lịch và giao thông, và thậm chí là đang thiếu một kế hoạch tổng thể về động đất và dự kiến chúng nên được hoàn thành đến năm 2010 (trong kỳ họp 2011 của năm 2010) [43]. Hướng tới SMP, hướng dẫn quan trọng nhất trong "quản lý trang di tích" (có liên quan đến luật bảo vệ ở Thổ Nhĩ Kỳ, quản lý di tích (site management) được sử dụng thay cho CHM nhất là vào thời điểm này) và việc thực hiện, được chuẩn bị phù hợp với các quyết định của WHC trong một cách tiếp cận bảo vệ toàn diện và bền vững, trên bán đảo lịch sử từ năm 2006 đến năm 2009 được coi là đầy hứa hẹn nhưng chưa đầy đủ.
Khi quá trình và nỗ lực được đánh giá từ quan điểm phê bình, khu vực quản lý và biên giới vùng đệm của bán đảo lịch sử, theo định nghĩa và mục tiêu quản lý trang web, vẫn còn gây tranh cãi. Sự phối hợp giữa các chính quyền trung ương và địa phương (Bộ Văn hoá và Du lịch, Hội đồng Khu vực Bảo vệ và Đổi mới) (như Khu đô thị İstanbul, Fatih Municipal, Tổng cục Quản lý Hàng không Quốc gia, Cơ quan Quản lý Tư nhân, Cục Quản lý Nhà nước) có liên quan và có thẩm quyền trong quản lý di tích và giữa các cơ quan này và các tổ chức quốc tế (như WHC và ICOMOS) chưa được thiết lập.
Năm 2006, một đơn vị điều phối di sản thế giới của UNESCO đã được tái lập để đạt được một cơ cấu quản lý mới trong Bộ Văn hoá và Du lịch. Tuy nhiên, đơn vị này đã không có hiệu quả do xung đột quyền lực do sự tồn tại của nhiều tổ chức và luật pháp khác nhau trong các khu vực bảo vệ và thực tế là chính quyền các thành phố cũng có thẩm quyền hợp pháp trong các khu vực bảo vệ đô thị. Hơn nữa, ở cấp địa phương, việc thành lập các đơn vị bảo vệ trong thành phố İstanbul và Fatih và Ban điều phối và Ban Cố vấn Quản lý Di tích và việc bổ nhiệm một Site Head đang có những bước phát triển tích cực.
Kế hoạch Quản lý là điều cần thiết trong hoạt động quản lý địa điểm đang được chuẩn bị với sự hỗ trợ của Thủ đô Văn hóa Châu Âu İstanbul 2010. Sự phát triển theo quá trình và các giai đoạn liên quan đến việc đạt được kế hoạch này được đánh giá như sau.
·       Sự bất cập ở giai đoạn chuẩn bị đang được tiến hành (tình trạng hiện tại của các khu vực bảo vệ, không có khả năng, trong quy hoạch, để xác định các cơ hội tài chính và kỹ thuật của khu vực xây dựng và bảo vệ ưu tiên - như Hagia Sophia, St. Sergius, Sauvér ở Chora, Cung điện Topkapı, Nhà thờ Hồi giáo Süleymaniye, Tường thành Teodosios). Thực tế là không có bản kiểm kê chính xác về các giá trị lịch sử và văn hoá và những khám phá bí mật dưới lòng đất không được hoàn thành, ngoài những tổn thất và phá hủy, và việc cản trở sự thành công. Các tổ chức công nghiệp và thương mại gây hại cho khu vực này cũng không được chỉ rõ ra.
·       Thực tế khi phân tích, đặc biệt là phân tích cảnh quan văn hoá và hình ảnh (hiệu ứng hình ảnh), chức năng và kế hoạch phân quyền, kế hoạch tổng thể về động đất và dữ liệu và đánh giá nguồn không thể thực hiện tác động đến việc đạt được kế hoạch quản lý và / hoặc toàn bộ quy trình một cách tiêu cực. Ở giai đoạn này, công tác về du lịch và quy hoạch giao thông và đánh giá tác động môi trường liên quan đến ảnh hưởng và mối đe dọa của các dự án xây dựng trong khu vực và các vùng lân cận của nó (như các cây cầu đã được lên kế hoạch xây dựn Golden Horn-Haliç- và Bosphorus) vẫn chưa được nhận ra "và xác định một tầm nhìn toàn diện và duy nhất liên quan đến việc bảo vệ và phát triển ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình đạt được một SMP đang được tổ chức từ tháng 7 năm 2010. Một kế hoạch xây dựng bảo vệ toàn diện (những gì đã được xác nhận vào năm 2005 đã bị đình chỉ năm 2008 bởi Tòa án hành chính), một trong những công cụ hiệu quả nhất trong việc áp dụng SMP, vẫn chưa đạt được. Mặc dù vậy, nhiều tổ chức đã được giao quyền quản lý khu vực do các luật khác nhau, tiếp tục cho ra và thực hiện các dự án độc lập (như dự án Süleymaniye Regeneration Project).
·       Vì vậy, sự tham gia, giám sát và điều phối không thể thực hiện do thiếu SMP, các ứng dụng và việc thực hiện không theo kế hoạch đang được WHC giám sát. Do đó, phù hợp với các báo cáo nhiệm vụ của WHC, việc xây dựng mới ảnh hưởng tiêu cực đến khu vực (Haydarpaşa, tháp Dubai Towers, tháp Bosphorus) đã được ngăn chặn, dự án Galataport đã bị đình chỉ, và công tác cứu hộ khảo cổ trong phạm vi của Marmaray Đường sắt Bosphorus Tunnel Pass đã được thực hiện. Khi các thông tin phản hồi và / hoặc dữ liệu và / hoặc vấn đề cần thiết (Golden Horn Bridge, Luật số 5366, khôi phục các bức tường thành phố, dự án đường hầm, không có khả năng bảo vệ các tòa nhà bằng gỗ, quan trọng hơn là thiếu các kế hoạch về du lịch, giao thông và động đất được xác định thông qua kế hoạch quản lý và các chương trình xây dựng nhận thức và đào tạo, thiếu sự phối hợp và / hoặc chia sẻ ở cấp quốc gia và quốc tế) để đạt được một SMP được xác định ở giai đoạn này, nó sẽ được hướng dẫn trong việc chuẩn bị SMP. Do đó, người ta nhận ra rằng, tại Bán Đảo Lịch sử, hệ thống quản lý di tích vẫn chưa được kích hoạt và rằng SMP sẽ định hình việc thực hiện/ứng dụng thì vẫn chưa đạt được.
5. Kết luận: Một đánh giá phê bình
Tại cuộc họp thường niên lần thứ 34 của UNESCO-WHC tại Braxin, người ta đã phản đối chung rằng Bán đảo Lịch sử sẽ hiển nhiên được công bố trong Danh sách Di sản Thế giới đang gặp Nguy hiểm (được nêu trong báo cáo của COM 7B WHC-10/34, ngày 1 tháng 6 năm 2010). Tuy nhiên, điều này sẽ được đánh giá lại tại cuộc họp lần thứ 35 tại Bahrain trong năm 2011, theo quyết định 34 COM 7B.102 của WHC, tháng 8 năm 2010, do các chuyên gia độc lập đưa ra, trong Báo cáo Đánh giá Tác động Môi trường, và cùng với đó là theo các bước phát triển để chuẩn bị một SMP mới bao gồm việc sửa đổi kế hoạch của Cầu tàu điện ngầm Golden Horn [44].
Như đã được hiểu, không tồn tại một Kế hoạch Quản lý ở Thổ Nhĩ Kỳ được thực hiện cho một Di sản Thế giới như Bán Đảo Lịch sử (Historic Peninsula). Tuy nhiên, quản lý di sản văn hoá, như một khái niệm toàn cầu, và thành tựu đạt được của SMP, thông qua các ví dụ thành công trong lĩnh vực này (như SMP thuộc về Liverpool) vẫn còn tương đối gần đây và vẫn đang được phát triển theo đặc tính địa phương, cũng giống như trường hợp với các mô hình mới.
Có thể lập luận rằng, trong quá trình này ở Thổ Nhĩ Kỳ, có thể nhận ra thông qua Kinh nghiệm của Historic Peninsula, mục tiêu của SMP, không giống như các quy trình lập kế hoạch quen thuộc, không phải là để thực hiện công việc lập kế hoạch của các quy mô cụ thể trong khu vực quản lý, và rằng nó là một kế hoạch chiến lược có tính hướng dẫn trong việc hướng dẫn các kế hoạch nâng cao về CHA có thể được sử dụng như thế nào trong việc quản lý địa điểm dựa trên tầm nhìn và quyết định của tất cả các đối tác và các cơ quan trong nước và quốc tế có thẩm quyền và tạo thành sự nhất trí chung hướng đến việc bảo tồn, sử dụng và cải thiện khu vực. Nói cách khác, yêu cầu ưu tiên là phải bảo đảm rằng các hoạt động bảo vệ, lập kế hoạch, quản lý và tham gia phải được định hướng thông qua SMP để duy trì CHA nên được cùng nhau đánh giá. Phù hợp với sự phát triển này và những định nghĩa này, hứa hẹn cho tương lai của thành phố, cũng như cho sự phát triển của bảo tồn, rằng các khái niệm về quản lý tại chỗ, sự tham gia của đối tác và tâm trí chung, lịch sử cảnh quan thành phố, vùng đệm và phân tích hiệu ứng thị giác, và di sản công nghiệp được thông qua.
Nói cách khác, yêu cầu ưu tiên là phải bảo đảm rằng các hoạt động bảo vệ, lập kế hoạch, quản lý và tham gia phải được định hướng thông qua SMP cho việc duy trì CHA và nên được đánh giá bởi tập thể. Phù hợp với sự phát triển này và những định nghĩa này, hứa hẹn cho tương lai của thành phố, cũng như cho sự phát triển của bảo tồn, rằng các khái niệm về quản lý tại chỗ (on-site management), sự tham gia của đối tác và sự nhất trí chung, cảnh quan thành phố lịch sử, vùng đệm và các phân tích hiệu ứng hình ảnh/thị giác, và di sản công nghiệp cũng được thông qua.
REFERENCES
[1] Austin, N.K., “Managing Heritage Attractions: Marketing Challenges at Sensitive Historical Sites”, International Journal of Tourism Research, 4 (6): 447-457, (2002).
[2] Mc Manamon, F. P., Hatton, A., Cultural Resource Management in Contemporary Society, Routledge, London and New York, (2000).
[3] UNESCO -1972, Convention Concerning the Protection of the World Cultural and Natural Heritage, http://whc.unesco.org/en/about/, (2010).
[4] Ahmad, Y., “The scope and definitions of heritage: from tangible to intangible”, International Journal of Heritage Studies, 12 (3): 292-300, (2006).
[5] ICOMOS-2008, The International Council on Monuments and Sites, http://www.international.icomos.org/quebec2008/res olutions/pdf/GA16_Resolutions_final_EN.pdf (2010).
[6] Turnpenny, M., “Cultural Heritage, An III-defined Concept? A Call for Joined-up Policy”, International Journal of Heritage Studies, 10 (3): 295-307, (2004).
[7] Masser, I., Sviden, O., Wegener, M., “What New Heritage for Which New Europe, Some Contextual Consideration”, Building A New HeritageTourism, Culture, and Identity in the New Europe, Routledge, London, (1994).
[8] Ashworth, G.J., “Form History to Heritage, From Heritage to Identity: In Search of Concepts and Models”, Building A New Heritage- Tourism, Culture, and Identity in the New Europe, Routledge, London, (1994).
[9] Howard, P., Heritage Management, Interpretation, Identity, MPG Books, London and New York, (2005).
[10] Lennon, J., Cultural Heritage Management, Managing Protected Areas: A Global Guide, Earthscan, London, 448-473, (2006).
[11] Gültekin, N.,Yürü N., “Kentsel sit alanlarında alan yönetimi”, Kent Yönetimi, İnsan ve Çevre Sorunları’08 Sempozyumu Bildiriler Kitabı, İstanbul,159-168, (2009).
[12] Madran, E., “Kültürel miras yönetimi, Kent Yönetimi, İnsan ve Çevre Sorunları Sempozyumu’08 Bildiriler Kitabı, İstanbul, 203- 208, (2009).
[13] Lyon, S. W., “Balancing values of outstanding universality with conservation and management at three united kingdom cultural world heritage sites”, Journal of Heritage Tourism, 2 (1): 53-63, (2007).
[14] UNESCO-1988, Guidelines for the Management of World Heritage Sites, http://whc.unesco.org/en/141, (2010).
[15] ICOMOS-1990, Charter for the Protection and Management of the Archaeological Heritage, http://www.icomos/icahm/documents/charter.html, (2010).
[16] ICOMOS- ICAHM-1990, The International Scientific Committee on Archaeological Heritage Management, http://www.icomos.org/icahm/abouticahm.html,
(2010). [17] UNESCO-2007, Guidelines for the Management of World Heritage Sites, http://whc.unesco.org/archive/2007/whc07-16ga- 12e.pdf, (2010).
[18] Mc Kercher, B., Cros, D. H., Cultural Tourism: The Partnership between Tourism and Cultural Heritage Management, the Haworth Hospitality Press, New York, (2002).
[19] Kerber, J.E., Cultural Resource Management: Archeological Research, Bergin & Carvey, London, (1994).
[20] Orbaşlı, A., Tourists in Historic Towns: Urban Conservation and Heritage Management, E & FN Spon, London, New York, (2000).
[21] UNESCO-2008, Operational Guidelines for the Implementation of the World Heritage Convention, http://whc.unesco.org/archive/opguide08-en.pdf, (2010).
[22] Feilden, B., Jokilehto, J., Management Guidelines for World Cultural Heritage Sites, ICCROM, Roma, (1998).
[23] Karpati, T.H., Management of World Heritage Sites, VDM Verlag Dr. Müler Aktiengesellschaft & Co. KG., Germany, (2008).
[24] Thomas, L., Middleton, J., Guidelines for Management Planning of Protected Areas- World
Commission on Protected Areas (WCPA), IUCN The World Conservation Union, Gland, Switzerland and Cambridge, (2003).
[25] Chape S., Spalding, M., Jenkins, M.D., The World’s Protected Areas; Status, Values and Prospects in the 21st Century, UNEP World Conservation Monitoring Centre, Berkeley, (2008).
[26] Karpuz H., “Koruma Alanlarında Alan Yönetimi Kapsamında Tarihi Yarımada”, MSc Thesis, Mimar Sinan University, Institute of Science, İstanbul, 18- 22, (2009).
[27] Yürü, N., Kentsel Sit Alan Yönetimi, İstanbul Beyoğlu Örneği, MSc. Thesis (unpublished), Gazi University, Institute of Science, Ankara, 21-29, (2009)
[28] Cleere, H., Archaeological Resource Management in the UK, Allan Sutton Publishing, UK, (1993).
[29] Cleere, H., “Management plans for archaeological sites: a world heritage template”, Conservation and Management of Archaeological Sites, 12 (1): 4-12, (2010).
[30] 2005 Edinburgh Management Plan, WHS Management Plan of Edinburg,
http://www.ewht.org.uk/looking-after-ourheritage/managing-the-world-heritage-site/whs management-plan, (2010).
[31] 2003-2011 Heritage Conservation Management Plan of Liverpool,
[32] Syracuse and The Rocky Necropolis of Pantalica Management Plan, Proposal for Inclusion in The World Heritage List, UNESCO, (2005).
[33] Orbaşlı, A., Architectural Conservation: Principle and Practise, Blackwell Science, Oxford, (2008).
[34] Gültekin, N., “Kentsel korumada yenileme tercihli yasal yaptırımlar”, Kent ve Bölge Üzerine Çalışmalar, GÜ. İletişim Fakültesi Matbaası, Ankara, 385-398, (2007).
[35] Kellinger, M.P., Avebury World Heritage Site: Megaliths, Management Plans and Monitoring, Recent Developments in Research and Management at World Heritage Sites, Oxford Archaeology, Oxford, 30-41, (2007).
[36] Leask, A., World Heritage Site Designation, Managing World Heritage Sites, Elsevier, Oxford, (2006).
[37] Kuban, D., İstanbul-Bir Kent Tarihi, İş Bankası Yayın., İstanbul, (2011).
[38] UNESCO-WHC-2003, World Heritage Center, 27th Session of The Committee, http://whc.unesco.org/en/sessions/27COM/documents/, (2010).
[39] UNESCO- 2005, International Conference on World Heritage and Contemporary Architecture, http://whc.unesco.org/uploads/activities/documents/activity-48-3.doc, (2010).
[40] UNESCO-WHC-2006, World Heritage Center, 30th Session of The Committee,
http://whc.unesco.org/en/sessions/30 COM/documents/, (2010).
[41] UNESCO-WHC-2008, World Heritage Center, 32nd Session of The Committee, http://whc.unesco.org/en/sessions/32COM/documents/, (2010).
[42] Tarihi Yarımada, www.arkitera.com/h1435-anitlarkurulu-tarihi-..., (2010).
[43] UNESCO-WHC-2009, World Heritage Center, 33rd Session of The Committee, http://whc.unesco.org/en/sessions/33COM/documents/,(2010).
[44] İstanbul Metropolitan Municipality,

http://www.ibb.gov.tr/trTR/Pages/Haber.aspx?NewsID=18632 (2010).

Viết và biên tập một bài báo khoa học Hiện nay, nghiên cứu khoa học là sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống, là yêu cầu của tất cả các ngành và...